Bệnh vẩy nến

Định nghĩa

Tên "bệnh vẩy nến" dựa trên từ "psora" trong tiếng Hy Lạp, là viết tắt của "gãi" hoặc "ngứa". Vẩy nến là một bệnh viêm da lành tính, mãn tính, không lây. Nó được đặc trưng bởi các đốm màu đỏ, dễ phân biệt, thường được bao phủ bởi các vảy màu trắng. Có hai dạng (bệnh vẩy nến vulgaris và bệnh vẩy nến mụn mủ), mỗi dạng đều có thể gây ra viêm đa khớp (viêm một số khớp). Vảy nến thể mủ là một bệnh ngoài da dường như có thành phần di truyền, vì nó thường ảnh hưởng đến một số thành viên trong gia đình.

Xuất hiện trong dân số (dịch tễ học)

Bệnh vẩy nến xảy ra ở 1.5-3% dân số da trắng, và ít thường xuyên hơn ở các nhóm dân tộc khác. Không quan hệ tình dục nào bị ảnh hưởng thường xuyên hơn giới tính kia. Do đó có một mối quan hệ cân bằng.

Sự phân bố độ tuổi cũng không theo một quy luật nào cả. Bệnh vảy nến gặp ở cả người trẻ và người già. Tuy nhiên, có hai đỉnh điểm của bệnh: một là ở thập kỷ thứ 2 - 3 của cuộc đời, hai là ở thập kỷ thứ 6.

Các dạng bệnh vẩy nến

Bệnh vẩy nến có thể được chia thành ba dạng khác nhau:

  • Vẩy nến vulgaris (chung)
  • Bệnh vẩy nến pustulosa (mụn mủ)
  • Bệnh vẩy nến của móng

Liệu pháp điều trị trong bối cảnh bệnh vẩy nến luôn phụ thuộc vào quá trình cá nhân và mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng. Trong khoảng thời gian bệnh vảy nến chưa phát triển nặng, cần chú ý chăm sóc da thật tốt để duy trì chức năng bảo vệ của da. Có nhiều loại kem bôi có hàm lượng chất béo cao, một số loại có hoạt chất khử trùng đặc biệt.

Tắm với các chất phụ gia dưỡng ẩm trong bồn tắm cũng giúp ích cho việc trị liệu, miễn là bạn không tắm nước quá ấm hoặc quá lâu. Hai chất phụ gia thuốc mỡ đã chỉ ra rằng chúng có tác dụng tích cực đối với bệnh vẩy nến: Urê và axit salicylic. Chúng làm giảm sự đóng cặn và giúp da duy trì hàng rào bảo vệ tự nhiên.

Nếu sự bùng phát của các triệu chứng xảy ra trong bối cảnh bùng phát bệnh vẩy nến, một chương trình trị liệu từng bước được sử dụng tại phòng khám. Sự phân biệt giữa các triệu chứng nhẹ, trung bình và nặng. Ban đầu, thuốc mỡ chứa glucocorticoid (cortisone) có sẵn, là cơ sở của liệu pháp trong các trường hợp nhẹ.

Chúng có tác dụng chống viêm và chống dị ứng bằng cách ức chế sự phát triển của các tế bào miễn dịch đã vượt quá giới hạn. Ngoài ra, số lượng tế bào gây ra hoặc hình thành gàu (tế bào sừng) bị giảm. Hơn nữa, thuốc mỡ có các chất giống như vitamin D3 được bôi lên các vùng bị ảnh hưởng để điều trị.

Điều này làm giảm chức năng của các tế bào miễn dịch khác. Các chất khác được sử dụng trong điều trị bệnh vẩy nến nhẹ được gọi là retinoids và cignolin. Các tác nhân mới bao gồm chất ức chế calcineurin, cũng được cho là điều chỉnh hệ thống miễn dịch tại địa phương

Nếu các tác nhân này không đủ, các biện pháp điều trị tiếp theo được thêm vào trong trường hợp bệnh vẩy nến vừa phải. phép trị liệu bằng quang tuyến, sử dụng bức xạ UV-A hoặc bức xạ UV-B, đóng một vai trò quan trọng ở đây. Chúng có tác dụng tích cực đã được chứng minh đối với bệnh vẩy nến và được kết hợp với thuốc mỡ hoặc thuốc tắm.

Là giai đoạn leo thang cuối cùng trong điều trị bệnh vẩy nến, có những tác nhân có sẵn cũng được sử dụng trong các lĩnh vực y tế khác để ngăn chặn hệ thống miễn dịch. Một số trong số chúng có tác dụng rất mạnh và cũng có tác dụng phụ. Chúng là tác nhân toàn thân, được sử dụng ở dạng viên nén hoặc truyền ngắn.

Ciclosporin hoặc methotrexate (MTX) đã được sử dụng trong một thời gian dài. Mới được thêm vào là kháng thể đặc biệt chỉ chặn một mục tiêu, do đó làm giảm đáng kể tác dụng phụ. Chính xác thì điều gì đúng là khác nhau tùy từng bệnh nhân.

Một số bệnh nhân báo cáo rằng các triệu chứng của họ thuyên giảm thông qua các biện pháp điều trị vi lượng đồng căn hoặc châm cứu. Tuy nhiên, không có đủ bằng chứng cho thấy tác dụng này vượt xa hiệu ứng giả dược. Một số bệnh nhân báo cáo rằng các triệu chứng của họ thuyên giảm thông qua các biện pháp điều trị vi lượng đồng căn hoặc châm cứu.

Tuy nhiên, không có đủ bằng chứng cho thấy tác dụng này vượt xa hiệu ứng giả dược. Liệu pháp laser: Nhờ vào chùm tia laser rất chính xác và mảnh, liệu pháp laser mang lại khả năng điều trị các vùng da bị ảnh hưởng rất chính xác. Kết quả là các mô xung quanh hầu như không bị ảnh hưởng gì.

Liều lượng được điều chỉnh theo mức độ nghiêm trọng của bệnh. PUVA: PUVA (Psoralen + UVA) là một quy trình đặc biệt sử dụng các chất làm tăng độ nhạy cảm của da với ánh sáng, các chất này được gọi là psoralenes. Ví dụ, chúng có thể được dùng dưới dạng viên nén, nhưng cũng có thể được bôi dưới dạng kem.

Điều này làm tăng ảnh hưởng của tia UVA đến da. Psoralene được cho là làm bất hoạt các tế bào hoạt động quá mức của hệ thống miễn dịch, cái gọi là tế bào T, chịu trách nhiệm cho bệnh vẩy nến. Các liệu pháp ánh sáng khác: Các phương pháp khác sử dụng bức xạ UVB và UVA là bức xạ tia cực tím phổ hẹp và tia cực tím chọn lọc xạ trị.

Cả hai phương pháp đều sử dụng sự chiếu xạ của da. Khi bị căng thẳng và căng thẳng tâm lý, những phàn nàn của bệnh nhân thường trầm trọng hơn. Do đó, việc giảm thiểu các yếu tố này có thể dẫn đến cải thiện tình trạng đau khổ.

Ví dụ, có khả năng đến thăm các nhóm tự lực hoặc tham khảo ý kiến ​​chuyên gia tâm lý về chủ đề này. Các nhà trị liệu tâm lý và nhà tâm lý học có thể huấn luyện bạn cách đối phó với căng thẳng và áp lực. Điện trị liệu: Liệu pháp điện vẫn là một thủ thuật khá mới, trong đó các vùng da bị ảnh hưởng được điều trị bằng dòng điện can thiệp liều lượng rất thấp.

Các điện cực được gắn cho mục đích này. Việc điều trị diễn ra hai lần một ngày trong vài tuần. Chỉ khi đó, kết quả mới có thể được nhìn thấy.

Người bệnh cũng có thể tự mình thực hiện liệu pháp bằng các thiết bị mượn hoặc mua. Dường như có mối liên hệ giữa bệnh celiac và bệnh vẩy nến, vì vậy việc tránh thực phẩm có chứa gluten có thể làm giảm bớt các triệu chứng. Bệnh vảy nến hình thành do sự tăng sinh lành tính của lớp biểu bì.

Các tế bào da di chuyển qua các lớp da riêng lẻ nhanh hơn nhiều so với bình thường. Ở làn da khỏe mạnh, các tế bào da phát triển sâu bên dưới sự phân chia tế bào của cái gọi là tế bào gốc và di chuyển vào các lớp trên khi chúng lớn lên. Thời gian di chuyển bình thường khoảng 28 ngày để đi từ lớp thấp nhất đến lớp trên cùng, lớp sừng.

Trong trường hợp vảy nến, tế bào chỉ cần khoảng 4 ngày. Sự tăng sinh của các tế bào da được tăng lên khoảng 20 lần hoặc hơn. Quá trình sừng hóa vội vàng và rối loạn này biểu hiện ở việc sừng hóa mạnh hơn và biểu bì ngày càng rộng ra. Tình trạng viêm phát triển trên da và hơn thế nữa máu tàu phát triển trong.