Rituximab: Tác dụng, Lĩnh vực ứng dụng, Tác dụng phụ

Rituximab hoạt động như thế nào

Rituximab là một kháng thể trị liệu (globulin miễn dịch trị liệu). Kháng thể là các protein (protein) được sản xuất tự nhiên trong cơ thể và được thiết kế để nhận biết các protein lạ hoặc có hại (ví dụ, từ ký sinh trùng, vi khuẩn và vi rút) và khiến chúng trở nên vô hại.

Kháng thể được sản xuất bởi tế bào B (còn gọi là tế bào lympho B). Đây là một loại tế bào thuộc nhóm bạch cầu. Khi tiếp xúc với chất lạ, chúng hình thành các kháng thể thích hợp chống lại chất đó và tấn công kẻ xâm nhập.

Giống như nhiều tế bào khác, tế bào B có các protein bề mặt có thể được xác định: Protein CD20. Thực tế này được sử dụng trong điều trị các bệnh liên quan đến số lượng tế bào B quá mức trong cơ thể, với các tế bào B hoạt động quá mức hoặc tế bào B không có chức năng.

Còn được gọi là “liệu ​​pháp điều trị ung thư nhắm mục tiêu”, phương pháp điều trị này có ít tác dụng phụ nghiêm trọng hơn nhiều so với các liệu pháp thông thường sử dụng các tác nhân ảnh hưởng bừa bãi đến tất cả các tế bào đang phân chia (tế bào ung thư và tế bào khỏe mạnh).

Hấp thu, thoái hóa và bài tiết

Sau khi truyền hoặc tiêm vào mạch máu (tiêm tĩnh mạch) hoặc dưới da (tiêm dưới da), kháng thể rituximab sẽ lan truyền qua hệ tuần hoàn và đến vị trí mà chúng dự định hoạt động.

Khi nào dùng Rituximab?

Rituximab được sử dụng để điều trị các bệnh sau:

  • Ung thư hạch không Hodgkin (NHL, ung thư hệ bạch huyết) – được sử dụng kết hợp với các tác nhân khác
  • Bệnh bạch cầu lymphocytic mãn tính (CLL) – được sử dụng kết hợp với các tác nhân khác
  • Viêm khớp dạng thấp – sử dụng kết hợp với hoạt chất methotrexate
  • Bệnh u hạt (nốt mô) với viêm đa mạch (viêm mạch)

Rituximab được sử dụng trong nhiều chu kỳ với khoảng thời gian từ vài tuần đến vài tháng. Việc sử dụng rituximab ngoài nhãn hiệu cũng được sử dụng, ví dụ, trong bệnh đa xơ cứng hoặc viêm thận cấp tính (viêm cầu thận).

Cách sử dụng rituximab

Do đó, lượng hoạt chất khoảng 500 đến 1000 miligam rituximab được sử dụng cho mỗi lần điều trị. Số lượng chu kỳ và khoảng thời gian giữa chúng cũng được xác định bởi bác sĩ. Một số bệnh nhân nhận được hoạt chất hàng tuần, những bệnh nhân khác nhận được khoảng thời gian lên đến ba tháng.

Tác dụng phụ của Rituximab là gì?

Trong quá trình điều trị bằng rituximab, hơn XNUMX% bệnh nhân gặp các tác dụng phụ như nhiễm trùng do vi khuẩn và virus, giảm số lượng bạch cầu và tiểu cầu, phản ứng dị ứng, đôi khi bị sưng (phù nề), buồn nôn, ngứa, phát ban, rụng tóc, sốt, đau đầu và ớn lạnh.

Đau tai, rối loạn nhịp tim, huyết áp cao hay thấp, rối loạn hô hấp, khó thở, ho, nôn mửa, đau bụng, rối loạn tiêu hóa, rối loạn da, đau cơ và các triệu chứng cảm lạnh cũng được quan sát thấy. Những tác dụng phụ như vậy xảy ra ở XNUMX/XNUMX đến XNUMX người được điều trị.

Cần cân nhắc điều gì khi sử dụng rituximab?

Chống chỉ định

Rituximab không được sử dụng trong:

  • nhiễm trùng nặng, hoạt động
  • bệnh nhân có hệ thống miễn dịch suy yếu nghiêm trọng
  • suy tim nặng (suy tim)

Tương tác thuốc

Không có tương tác nào được biết đến giữa rituximab và các thuốc khác.

Bệnh nhân bị nhiễm trùng nặng (như bệnh lao, HIV, viêm gan siêu vi) không nên điều trị bằng rituximab vì điều này càng làm suy yếu hệ thống miễn dịch.

Giới hạn độ tuổi

Đối với một số chỉ định nhất định, việc truyền hoạt chất được chấp thuận từ sáu tháng tuổi. Liều lượng được xác định riêng lẻ.

Mang thai và cho con bú

Rituximab thường được ngừng sử dụng sớm trong trường hợp có kế hoạch mang thai hoặc trong trường hợp có thai ngoài ý muốn ngay khi biết được điều đó. Dữ liệu từ cơ sở dữ liệu của nhà sản xuất không phát hiện được các triệu chứng liên quan đến lâm sàng ở trẻ sơ sinh trong phần lớn các trường hợp.

Do khối lượng phân tử lớn nên rituximab khó có thể truyền vào sữa mẹ. Trong mọi trường hợp, quyết định điều trị trong thời gian cho con bú đều do các bác sĩ chuyên khoa đưa ra.

Cách nhận thuốc với rituximab

Điều trị bằng rituximab thường được thực hiện trực tiếp tại bệnh viện hoặc phòng khám chuyên khoa, sau đó chuẩn bị thuốc cho từng bệnh nhân.

Rituximab được biết đến từ khi nào?

Việc gia hạn ủy quyền tiếp thị đã được cấp tại EU vào năm 2006 để điều trị bệnh viêm khớp dạng thấp và vào năm 2012 đối với bệnh Wegener. Bằng sáng chế của Hoa Kỳ đã hết hạn vào năm 2015. Trong khi đó, thuốc sinh học tương tự đầu tiên có rituximab đã có mặt trên thị trường.