Interferon trong MS và Viêm gan C

Là gì interferon? Giao thoa là những sứ giả quan trọng của tự nhiên hệ thống miễn dịch và ngăn ngừa sự lây lan của các bệnh nhiễm trùng do virus. Biến đổi gen giao thoa đã đóng một vai trò quan trọng trong việc điều trị viêm gan C và đa xơ cứng nhiều năm. Giao thoa là nội sinh protein thuộc về nhóm cytokine. Chúng đóng một vai trò quan trọng trong quá trình bảo vệ miễn dịch tự nhiên của cơ thể và hạn chế sự lây lan của các bệnh nhiễm vi rút.

Tác dụng của interferon

Tế bào bị vi-rút tấn công sẽ giải phóng interferon. Đã phát hành interferon kích thích phản ứng miễn dịch tự nhiên của cơ thể và ngăn chặn sự lây lan thêm của vi rút. Interferon có thể được chia thành các loại phụ, khác nhau về cấu trúc hóa học và được tạo ra bởi các loại tế bào khác nhau. Các đại diện nổi bật nhất là: Alpha-interferon (α-IFN), beta-interferon (β-IFN) và gamma-interferon (γ-IFN). Với sự giúp đỡ của kỹ thuật di truyền hiện nay, interferon có thể được sản xuất nhân tạo và được sử dụng để điều trị một số bệnh. Trong khi interferon alpha được sử dụng trong điều trị viêm gan C và một số bệnh khối u, beta interferon là một thành phần quan trọng trong điều trị of đa xơ cứng (CÔ). Bởi vì interferon kích thích phản ứng miễn dịch của cơ thể, interferon điều trị thường đi kèm với các tác dụng phụ nghiêm trọng.

Alpha interferon và viêm gan C

Alpha interferon thường được sử dụng để điều trị cấp tính và mãn tính viêm gan C. Nhiễm trùng với viêm gan C vi rút gây ra nghiêm trọng viêm của gan. Trong nhiều trường hợp (khoảng 50-80 phần trăm), cấp tính viêm gan C nhiễm trùng là mãn tính và có thể dẫn quan trọng gan thiệt hại về lâu dài. Trong điều trị với alpha-interferon, bệnh nhân được tiêm dưới da (tiêm dưới da) đều đặn - thường là hàng tuần. Ngoài ra, người bệnh phải dùng ribavirin, cũng có tác dụng kháng vi-rút. Điều trị interferon cho viêm gan C kéo dài từ 24 đến 48 tuần. Để đảm bảo thành công điều trị tối ưu, bệnh nhân nên kiêng hoàn toàn rượu trong quá trình trị liệu. Alpha interferon cũng được sử dụng để điều trị một số bệnh ung thư. Những thành công tốt nhất cho đến nay đã đạt được trong ung thư biểu mô tế bào thận và ác tính khối u ác tính (đen ung thư da).

Beta interferon và bệnh đa xơ cứng (MS).

Beta interferon được sử dụng phổ biến nhất để điều trị đa xơ cứng (CÔ). Bệnh đa xơ cứng là một trong những bệnh thần kinh phổ biến nhất ở lứa tuổi thanh niên. Theo Hiệp hội Đa xơ cứng Đức (DMSG), hơn 250,000 người ở Đức hiện mắc chứng MS. Bệnh đa xơ cứng là một bệnh viêm trung ương hệ thần kinh (CNS), trong đó một lớp bảo vệ quan trọng của các sợi thần kinh, cái gọi là vỏ bọc myelin, dần dần bị thoái hóa. Kết quả là, liên lạc giữa các tế bào thần kinh bị gián đoạn, dẫn đến các thiếu hụt thần kinh khác nhau thường xảy ra theo từng đợt. Các các triệu chứng của bệnh đa xơ cứng rất khác nhau và phụ thuộc vào khu vực nào của hệ thần kinh bị ảnh hưởng. Ví dụ: rối loạn thị giác, cảm giác ngứa ran hoặc Hoa mắt có thể xảy ra. Vì căn bệnh này là một trong những bệnh tự miễn dịch, betra-interferon có thể được sử dụng rất tốt để điều trị tại đây để giảm số lượng và mức độ nghiêm trọng của các đợt tái phát.

MS: Interferon gamma rất quan trọng?

Trong bệnh đa xơ cứng, hệ thống miễn dịch chống lại chính các tế bào của cơ thể một cách nhầm lẫn. Gamma interferon được cho là đóng một vai trò quan trọng trong việc kích hoạt tái phát MS. Mặt khác, beta interferon được sử dụng để điều trị bệnh đa xơ cứng. Nó ngăn chặn tác động kích hoạt tái phát của gamma interferon và làm giảm các phản ứng viêm ở thần kinh trung ương. Điều trị MS với beta interferon được thực hiện thường xuyên tiêm thuốc (vài lần một tuần). Interferon beta đã được chứng minh là làm giảm tần suất tái phát và mức độ nghiêm trọng trong một số nghiên cứu.

Tác dụng phụ của điều trị với interferon

Tác dụng phụ phổ biến nhất của liệu pháp interferon là cúmcác triệu chứng giống như sốt, đau khớpmệt mỏi. Ngoài ra, interferon có thể có tác dụng phụ tâm lý đáng kể, chẳng hạn như trầm cảm, hung hăng, rối loạn giấc ngủ, mệt mỏiĐối với cả alpha-interferon và beta-interferon, các tác dụng phụ được mô tả là rất giống nhau và là lý do phổ biến cho việc ngừng điều trị bằng interferon.