Đồng tính luyến ái: Chức năng, Nhiệm vụ, Vai trò & Bệnh tật

Đồng tính luyến ái là thuật ngữ dùng để mô tả xu hướng tình dục. Qua đó nảy sinh mong muốn lãng mạn và gợi tình đối với giới tính của chính mình.

Đồng tính luyến ái là gì?

Đồng tính luyến ái là thuật ngữ dùng để mô tả xu hướng tình dục. Trong điều này, có một mong muốn lãng mạn và khiêu dâm đối với tình dục của chính mình. Đồng tính luyến ái có nghĩa là có xu hướng lãng mạn và tình dục đối với giới tính của chính mình. Trong khi phụ nữ đồng tính luyến ái có tên thông tục là "đồng tính nữ", thì nam giới đồng tính luyến ái được gọi là "đồng tính". Mặt khác, nếu có sở thích tình dục ở cả người khác giới và người khác giới, thì thuật ngữ lưỡng tính được sử dụng. Người ta ước tính rằng từ 2 đến 4 phần trăm nam giới và phụ nữ ở Đức là đồng tính luyến ái. Thuật ngữ đồng tính được đặt ra vào năm 1869 bởi nhà văn học Áo-Hung Karl Maria Kertbeny (1824-1882). Ngoài ra, thuật ngữ uranism đã được sử dụng vào thế kỷ 19. Vào thời cổ đại, đồng tính luyến ái được coi là hình thức biểu hiện tình dục cao nhất. Mặt khác, ở những thời đại sau này, chẳng hạn như thời Trung cổ hay thời hiện đại, tình yêu đồng giới bị coi là tội lỗi. Các quan điểm tôn giáo và tư tưởng nói riêng đóng một vai trò quan trọng. Thậm chí ngày nay, vẫn có những nền văn hóa coi đồng tính luyến ái là bất bình thường và phi tự nhiên, trong khi các xã hội phương Tây ngày càng cởi mở hơn với nó. Do đó, cảnh đồng tính nam và đồng tính nữ ở Đức phần lớn được chấp nhận và có nhiều trung tâm ở các thành phố lớn hơn. Ngoài ra, có rất nhiều địa điểm gặp gỡ, trung tâm tư vấn và các hoạt động nghệ thuật. Tuy nhiên, ở các quốc gia khác, những người đồng tính luyến ái vẫn phải đối mặt với sự kỳ thị và ngược đãi. Mặt khác, ở Đức, các cặp đồng tính đã có thể đăng ký quan hệ đối tác dân sự từ năm 2001. Những quan hệ đối tác này gần giống với hôn nhân và bao gồm các nghĩa vụ duy trì lẫn nhau và quyền có tên chung. Tuy nhiên, các cặp vợ chồng vẫn bị từ chối quyền bình đẳng với các cặp vợ chồng khác giới (ví dụ, đối với việc nhận con nuôi).

Chức năng và nhiệm vụ

Nguyên nhân gây ra xu hướng tình dục đồng giới vẫn chưa rõ ràng. Do đó, các lý thuyết khác nhau đóng vai trò là các mô hình giải thích. Chúng bao gồm lý thuyết cho rằng xu hướng tình dục của con người xuất hiện trước khi sinh ra và xu hướng đồng giới được di truyền. Mặt khác, một lý thuyết khác cho rằng sự phát triển của con người là nguyên nhân dẫn đến sự xuất hiện của đồng tính luyến ái. Do đó, có lẽ là một hoàn cảnh tự nhiên như dị tính luyến ái, tuy nhiên, trong nhiều thế kỷ đã được định nghĩa là cách tồn tại “đúng đắn” duy nhất (thuyết dị bản). Cũng như các nguyên nhân của đồng tính luyến ái không rõ ràng là các chức năng của nó. Do đó, một cấu trúc di truyền đặt ra câu hỏi về tính hữu ích của nó đối với sự tiến hóa của con người. Những đặc điểm chống lại sự sinh sản của con người trong lịch sử đã được coi là tiêu cực. Do đó, khoa học đang nghiên cứu câu hỏi liệu, với tần suất đồng tính luyến ái, có thể có một lợi thế tiến hóa hay không. Các lý thuyết khác nhau cũng đã được phát triển về vấn đề này. Ví dụ, một số nhà nghiên cứu cho rằng việc không có con của mình là do lựa chọn họ hàng trong thị tộc. Bằng cách này, nhiều người hơn có thể cung cấp cho con cái của họ. Tuy nhiên, việc sử dụng đồng tính luyến ái theo lý thuyết tiến hóa vẫn chưa được giải thích vì nó cũng có thể gây ra ảnh hưởng tương tự đối với tình dục vô tính. Tuy nhiên, như một số nhà khoa học đã nói, có thể đặt câu hỏi tổng thể rằng liệu khái niệm tình yêu của con người có nhất thiết phải liên quan đến phương thức sinh sản tối ưu hay không. Chẳng hạn như Richard David Precht đã lập luận, tình yêu một vợ một chồng thậm chí có thể cản trở số lượng con cái cao hơn. Vì vậy, tình yêu, tình dục và sự sinh sản cũng có thể được coi là tách biệt với nhau. Hơn nữa, đồng tính luyến ái không chỉ giới hạn ở con người mà còn xuất hiện ở cả thế giới động vật. Do đó, hành vi quan hệ tình dục đồng giới có thể được xác định với khoảng 1500 loài động vật khác nhau. Điều này chủ yếu được chứng minh với Bonobos, xếp hạng trong số các loài vượn.

Bệnh tật và phàn nàn

Một số bệnh có liên quan đến đồng tính luyến ái, mặc dù xu hướng tình dục không phải là nguyên nhân thực sự gây ra các bệnh này, nhưng có tương quan với chúng bởi các hoàn cảnh khác. Trong một thời gian dài, điều này chủ yếu bao gồm AIDS Do đó, ở các nước phương Tây, vi rút HI ban đầu lây lan mạnh ở những người đồng tính luyến ái nam, do nguy cơ lây nhiễm cao khi quan hệ qua đường hậu môn. Tại thời điểm đó, AIDS vẫn còn là một ẩn số bệnh truyền nhiễm. Tuy nhiên, qua nhiều năm, việc giáo dục về virus đã thành công. Các chiến dịch giáo dục cũng giúp sửa chữa những nhận thức sai lầm về những người đồng tính luyến ái. Ví dụ, ý tưởng rằng AIDS là một trừng phạt cho những người đàn ông theo đuổi "tội lỗi" của tình yêu đồng giới. Theo quan điểm y tế, những người đồng tính nam chỉ thuộc nhóm nguy cơ AIDS nếu họ thực hiện hành vi giao hợp qua đường hậu môn không được bảo vệ với những người bạn tình đang thay đổi. Điều tương tự cũng áp dụng cho tất cả các cặp đôi quan hệ tình dục khác, vì về nguyên tắc, việc nhiễm vi-rút HI là có thể xảy ra ở mỗi người. Đồng tính luyến ái cũng thường liên quan đến các vấn đề tâm lý. Nhiều người đồng tính nam và đồng tính nữ ngại ra mắt vì họ sợ phản ứng tiêu cực từ cha mẹ, người thân hoặc bạn bè của họ. Trong một số trường hợp, điều này dẫn đến bất hòa trong gia đình, từ đó gây ra tâm lý nghiêm trọng căng thẳng cho những người bị ảnh hưởng. Sự phân biệt đối xử ở nơi làm việc cũng có thể hình dung được nên một số người đồng tính luyến ái không muốn ra mặt. Tuy nhiên, việc come out và đặc biệt là sự chấp nhận từ môi trường sống đồng nghĩa với một quá trình quan trọng để có thể tìm ra bản sắc giới tính của chính mình. Về sau, việc đàn áp danh tính này có thể gây ra các bệnh tâm thần như rối loạn lo âu, trầm cảm hoặc lạm dụng rượu, thuốc và thuốc. Điều này lại có ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng cuộc sống của những người đồng tính luyến ái. Trong trường hợp xấu nhất, những nỗ lực tự sát thậm chí còn xảy ra. Như vậy, nam giới đồng tính có nguy cơ tự tử cao gấp XNUMX lần so với người dị tính. Mặt khác, ở phụ nữ đồng tính nữ, có nguy cơ cao hơn rượu sự phụ thuộc.