Methicillin: Tác dụng, Sử dụng & Rủi ro

Methicillin là một kháng sinh từ penicillin nhóm hoạt chất. Nó chỉ có hiệu quả đối với vi khuẩn Gram dương vi khuẩn như là Staphylococcus aureus và do đó có một phổ hoạt động rất hẹp. Ngày nay, nó không còn được dùng như một loại thuốc, mà chỉ được sử dụng như một chất chỉ thị trong MRSA kiểm tra sức đề kháng.

Methicillin là gì?

Methicillin là một kháng sinh từ penicillin nhóm của thuốc. Nó chỉ có hiệu quả đối với vi khuẩn Gram dương vi khuẩn như là Staphylococcus aureus. Methicillin được coi là thuốc đầu tiên penicillin mà khả năng kháng penicillinase của vi khuẩn đã được thiết lập. Tính năng đặc trưng của methicillin là một vòng beta-lactam được bảo vệ chắc chắn chống lại sự phá hủy bên ngoài. Enzyme penicillinase phân hủy vòng beta-lactam này của penicillin, khiến chúng không hiệu quả. Tuy nhiên, methicillin có một chuỗi phụ cản trở việc tiếp cận của enzym với vòng beta-lactam. Do đó, methicillin làm dấy lên nhiều hy vọng trở thành một loại penicillin hiệu quả chống lại vi khuẩn Gram dương vi khuẩn. Năm 1959, nó được phát triển bởi công ty dược phẩm “Beecham”. Ban đầu, nó có thể chống lại sự lây nhiễm vi khuẩn một cách hiệu quả Staphylococcus aureus. Tuy nhiên, càng ngày càng có nhiều sự kháng cự phát triển. Methicillin phải được sử dụng ngoài đường tiêu hóa (không qua hệ tiêu hóa) vì nó nhạy cảm với axit và do đó sẽ bị phá hủy trong dạ dày. Sau đó, methicillin được thay thế bằng penicillin oxacillin hoặc flucloxacilin, cũng có khả năng kháng lại penicilinase, vì chúng kháng axit và do đó cũng có thể được sử dụng bằng đường uống. Đồng thời, họ cũng dẫn ít tác dụng phụ hơn methicillin. Niềm tin rằng methicillin không thể dẫn để kháng lại các chủng vi khuẩn cũng đã bị bác bỏ. Ngày nay, thuật ngữ MRSA (kháng methicillin Staphylococcus aureus) là viết tắt của vi trùng bệnh viện đa kháng thuốc nguy hiểm.

Tác dụng dược lý

Tác dụng kháng khuẩn của methicillin đối với vi khuẩn Gram dương vi trùng dựa trên sự gián đoạn của việc tích tụ một lớp murein. Các vi khuẩn hiện có không bị tấn công bởi methicillin. Tuy nhiên, cấu trúc tế bào của chúng bị cản trở vì thành tế bào của vi khuẩn không thể hình thành do cấu trúc của lớp murein bị xáo trộn. Murein là một peptidoglycan cần thiết cho việc xây dựng thành tế bào vi khuẩn. Trái ngược với vi khuẩn gram âm, vi khuẩn gram dương nói riêng có một lớp murein dày. Do đó, methicillin chỉ có tác dụng đối với vi khuẩn Gram dương vi trùng. Tuy nhiên, vi khuẩn gram âm lại kháng methicillin. Lớp murein được xây dựng với sự trợ giúp của men vi khuẩn transpeptidase. Enzyme transpeptidase đảm bảo rằng axit N-acetylmuramic kết hợp với N-acetylglucosamine để tạo thành murein. Tuy nhiên, transpeptidase nhạy cảm với tất cả các beta-lactam kháng sinh. Beta-lactam kháng sinh ức chế enzym bằng cách hình thành liên kết chặt chẽ. Là một phần của phản ứng này, vòng beta-lactam mở ra và có thể liên kết amino axit ở vị trí hoạt động của enzym ở dạng này, làm cho men transpeptidase mất tác dụng. Tuy nhiên, các đột biến liên tục đã làm cho men transpeptidase ngày càng ổn định chống lại hoạt động của beta-lactam kháng sinh. Do đó, khả năng chống lại kháng sinh beta-lactam chẳng hạn như methicillin đã phát triển ở giai đoạn đầu.

Ứng dụng y tế và sử dụng

Bắt đầu từ cuối những năm 1950, methicillin được sử dụng như một kháng sinh chống lại vi khuẩn Gram dương. Nó được tìm thấy ứng dụng cụ thể trong việc kiểm soát nhiễm trùng với Staphylococcus aureus. Thông thường, vi khuẩn này là vô hại. Nó được tìm thấy ở khắp mọi nơi trên da và màng nhầy của người và động vật. Tuy nhiên, nó có thể gây nhiễm trùng nghiêm trọng ở những người bị suy giảm miễn dịch. Sự lây lan của những vi trùng có thể ngừng bằng methicillin. Tuy nhiên, vì methicillin nhạy cảm với axit, nên nó phải được truyền bằng cách tiêm truyền. Theo thời gian, methicillin cuối cùng đã được thay thế bằng chất kháng axit kháng sinh beta-lactam oxacilin, flucloxacilin và dicloxacillin. Chúng hoạt động tương tự như methicillin nhưng ít gây ra tác dụng phụ hơn. Ngày nay, methicillin chỉ được sử dụng như một chất chỉ thị cùng với oxacillin và các kháng sinh khác trong bối cảnh MRSA kiểm tra sức đề kháng. Ban đầu, methicillin được sử dụng làm dẫn kháng sinh cho thử nghiệm này. Đây cũng là nguồn gốc của tên gọi MRSA cho vi trùng bệnh viện đa kháng, ngoài ra còn có thuật ngữ MRSA, ORSA (kháng oxacillin Staphylococcus aureus) hiện nay cũng đã được thiết lập cho vi trùng bệnh viện, vì oxacillin hiện thường được sử dụng như một chất chỉ thị. Tầm quan trọng y tế thực sự của methicillin dựa trên thực tế là nó là loại penicillin đầu tiên kháng penicillinase được tìm thấy ứng dụng. Nó là một loại kháng sinh phổ hẹp chống lại vi trùng Gram dương.

Rủi ro và tác dụng phụ

Việc tăng cường sử dụng methicillin đã góp phần vào sự phát triển của vi trùng đa kháng thuốc, Trong số những thứ khác. Khi bắt đầu được sử dụng vào cuối những năm 1950, methicillin đã bị loại trừ như một nguồn kháng thuốc. Tuy nhiên, vi trùng kháng thuốc kháng sinh đã phát triển trong những năm đầu. Ngày nay, MRSA hay ORSA được coi là đại diện quan trọng nhất của vi trùng đa kháng. Do việc sử dụng methicillin bắt đầu từ rất sớm nên việc kháng thuốc kháng sinh đầu tiên liên quan đến methicillin. Tuy nhiên, rõ ràng là những vi trùng này cũng phát triển sức đề kháng đối với kháng sinh beta-lactam, vì phương thức hoạt động của họ có thể so sánh được. Methicillin được sử dụng đặc biệt ở bệnh viện, các cơ sở y tế khác hoặc viện dưỡng lão, vì hầu hết các trường hợp nhiễm Staphylococcus aureus đều xảy ra ở đó, do nhiều bệnh nhân suy giảm miễn dịch được điều trị tại đây. Kết quả là, vi trùng ban đầu phát triển khả năng đề kháng với kháng sinh beta-lactam và sau đó, trong một số trường hợp, với các kháng sinh khác. Sự xuất hiện của vi trùng đa kháng thuốc tại các bệnh viện, các cơ sở y tế khác và viện dưỡng lão ngày nay đặt ra những thách thức lớn đối với sức khỏe hệ thống chăm sóc. Ví dụ, khối lượng bừa bãi điều trị bằng kháng sinh, và đặc biệt là với methicillin, đã dẫn đến những căn bệnh không tồn tại trong quá khứ. Ngoài ra, hiện nay việc kiểm soát nhiễm trùng Staphylococcus aureus ở những người bị suy giảm miễn dịch ngày càng khó khăn do tình trạng kháng một số loại kháng sinh tiếp tục xuất hiện.