Phôi học: Điều trị, Hiệu ứng & Rủi ro

Sự phát triển của con người bắt đầu thông qua sinh sản hữu tính và hình thành giao tử sau đó. Một tế bào, được gọi là giao tử, được hình thành từ các tế bào mầm nguyên thủy và có bộ đơn bội gồm nhiễm sắc thể, gặp một quả trứng phụ nữ như một tinh trùng. Sau khi thụ tinh, hợp tử phát triển, mầm được nhúng vào, và quá trình hình thành phôi bắt đầu - sự phát triển của một phôi. Phôi học nghiên cứu và quan sát quá trình này.

Phôi học là gì?

Phôi học là một nhánh của y học và sinh học phát triển. Từ "phôi thai" bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp và có nghĩa là trái cây cuộc sống. Đây là một nhánh của y học và sinh học phát triển. Từ "phôi thai" xuất phát từ tiếng Hy Lạp và có nghĩa là trái cây cuộc sống. Do đó, nó là khoa học về toàn bộ sự phát triển trước khi sinh. Ngay từ thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên, những lý thuyết đầu tiên đã được đưa ra về cách một phôi nên phát triển. Tuy nhiên, quan niệm vẫn được đặc trưng bởi khía cạnh tin tưởng, vì vậy người ta đã giả định hành động của một tạo vật thần thánh. Nhà triết học Hy Lạp Aristotle sau đó đã đưa ra lý thuyết rằng tinh trùng có thể kích hoạt kinh nguyệt của phụ nữ máu theo một cách nào đó, do đó bắt đầu hình thành một phôi. Leonardo da Vinci đã thực hiện những phép đo đầu tiên về các giai đoạn phát triển khác nhau của phôi thai, trong khi ngay từ thế kỷ thứ 2 sau Công nguyên, bác sĩ Galenos, cũng đến từ Hy Lạp, đã viết về sự phát triển trước khi sinh và về nhau thai, những điều kiện đã hình thành phôi thai học cho đến thời hiện đại. Sự thụ tinh, sự phát triển của trứng đã thụ tinh thành một phôi thai, được xem xét chi tiết hơn ở đây, và phôi học có thể được chia thành chung và cụ thể.

Phương pháp điều trị và liệu pháp

Đối với phôi học nói chung, sự phát triển của tế bào mầm đóng một vai trò quan trọng. Quá trình của sự rụng trứng, thụ tinh và cấy ghép. Sự hình thành và chức năng của màng trứng, nhau thai, và đĩa mầm được xem xét chi tiết hơn. Màng trứng là lớp mô bao bọc thai nhi trong tử cung. Cuối cùng chúng tạo thành túi ối, ngăn cách phôi thai khỏi mô mẹ. Trong phôi học, màng trứng bên ngoài được phân biệt với màng trứng bên trong. Màng trứng gắn vào mép của nhau thai. Nhau thai hình thành ở phụ nữ tử cung và liên tục cung cấp phôi bằng ôxy và các chất dinh dưỡng có nguồn gốc từ quá trình trao đổi chất của mẹ. Nó hình thành sau phôi bào cấy ghép trong tử cung và nặng khoảng 500 gram khi phát triển đầy đủ. Nó bao gồm một phần của mẹ và thai nhi, trong khi phôi được kết nối với nhau thai bằng dây rốn. Đĩa mầm, đến lượt nó, là một phần của trứng đã thụ tinh mà từ đó phôi được hình thành. Tất cả điều này thuộc về lĩnh vực phôi học nói chung. Phôi học đặc biệt vượt ra ngoài sự phát triển của phôi và nhiều hơn nữa vào việc hình thành các hệ thống cơ quan riêng lẻ. Ở đây, sự hình thành của não, tim, phổi và các cơ quan khác được xem xét chi tiết hơn. Phần tóm tắt sau đó đề cập đến phôi học của cơ quan tương ứng. Ngoài ra, còn có phôi học so sánh, so sánh sự phát triển phôi của các loài khác nhau và do đó cũng đưa ra kết luận về các khía cạnh phát sinh loài, mô tả, phân tích sự xuất hiện của cấu trúc động vật hoặc thực vật, nhân quả, tiến hành phân tích chức năng và nhân quả và đặt ra câu hỏi về các yếu tố quyết định ảnh hưởng đến sự phát triển của phôi, và phôi học định hướng phát sinh loài, tiến hành phân tích quá trình tiến hóa và do đó xem xét những thay đổi được xác định về mặt phát sinh loài trong các quá trình, do đó làm phong phú thêm nghiên cứu tương đồng. Các lĩnh vực khác mà phôi học có tác động đến là miễn dịch học, nuôi cấy mô và khoa nội tiết. Ngoài ra, sự dung hợp tế bào và phương pháp chuyển giao hạt nhân đã được giới thiệu. Các chuyên ngành dần dần hợp nhất với nhau, do đó, ví dụ, các nhà di truyền học, các nhà sinh học phân tử và phát triển đã làm việc cùng nhau. Một lĩnh vực con khác cũng là phôi học phân tử. Điều này đề cập cụ thể đến các quá trình phân tử xảy ra trong giai đoạn phát triển phôi thai. Các cơ chế kiểm soát sự biệt hóa của tế bào có liên quan. Người ta thấy rằng sự phát triển của phôi ở động vật và con người giống nhau về mức độ phân tử. Người ta cũng phát hiện ra rằng các gen liên quan đến sự phát triển đóng một vai trò quan trọng trong các bệnh có thể xảy ra ở người.

Phương pháp chẩn đoán và kiểm tra

Khi dị tật xảy ra hoặc tế bào mầm bị hư hại trong quá trình phát triển phôi, y học và phôi học nói về thể giao tử. Đây là những khuyết tật đã có trong trứng hoặc tinh trùng tế bào trước khi xảy ra quá trình thụ tinh. Một khiếm khuyết xảy ra trong quá trình phát triển thai nhi được gọi là fetapathy. Trong trường hợp này, giai đoạn đầu tiên của mang thai đặc biệt dễ bị ảnh hưởng bởi các tác động có hại, trong khi hai giai đoạn thứ hai ít bị ảnh hưởng hơn vì hầu hết các cơ quan đã hình thành. Những công cụ tìm nạp như vậy có thể đạt đến thai nhi qua nhau thai vào máu, có thể là tác nhân lây nhiễm, chất độc hoặc ví dụ như rối loạn chuyển hóa của mẹ. Các nhà khoa học hy vọng rằng việc sử dụng tế bào gốc phôi sẽ mang lại cơ hội lớn để chữa khỏi những căn bệnh cho đến nay vẫn chưa có phương pháp điều trị. Để có được những tế bào như vậy, phôi người bị phá hủy ở giai đoạn rất sớm, vì vậy quy trình này vẫn còn vô cùng tranh cãi. Trong khi ở Đức, việc tạo ra các tế bào gốc phôi bị cấm, ở Mỹ và Anh đã có những nỗ lực thử nghiệm như vậy, ví dụ với những bệnh nhân mắc bệnh “Morbus Stargardt”. Tế bào gốc phôi có thể biến đổi thành bất kỳ loại mô nào làm tế bào cơ thể và do đó thay thế các tế bào bị bệnh. Tế bào gốc phôi được đặt vào mắt của các đối tượng thử nghiệm để kiểm tra xem chúng có tương thích với võng mạc bị tổn thương hay không. Kết quả rất khả quan.