Cử chỉ: Chức năng, Nhiệm vụ, Vai trò & Bệnh tật

Cử chỉ là giao tiếp phi ngôn ngữ thông qua cánh tay, bàn tay và cái đầu sự di chuyển. Nó thường xảy ra đồng thời với giao tiếp bằng lời nói và hỗ trợ các đặc điểm của lời nói.

Cử chỉ là gì?

Cử chỉ là giao tiếp phi ngôn ngữ thông qua cánh tay, bàn tay và cái đầu sự di chuyển. Cử chỉ có tầm quan trọng to lớn trong quá trình tiến hóa của loài người và góp phần vào sự phát triển của ngôn ngữ. Chúng thậm chí còn có ảnh hưởng đến sự phát triển của người đi đứng thẳng (Homo erectus) và sau này là sự phát triển của con người sáng tạo, Homo Faber. Kể từ đó, anh đã sử dụng bàn tay như một công cụ. Con người sử dụng bàn tay để giao tiếp bằng cử chỉ, từ đó các cơ quan lời nói và giao tiếp âm thanh có thể phát triển. Bằng cử chỉ, hầu hết các nhà khoa học hiểu được tiềm năng biểu hiện ký hiệu của cơ thể con người với sự trợ giúp của cái đầu, cánh tay và bàn tay. Do đó, tư thế và chuyển động của cơ thể không có ý nghĩa với nó. Một số nhà khoa học hiểu thuật ngữ này rộng hơn và thêm các chuyển động cơ thể vô thức. Những người khác hiểu bằng cử chỉ toàn bộ hành động cơ thể của loại phi ngôn ngữ, mà ai đó muốn thể hiện điều gì đó một cách có chủ ý. Các cử chỉ nghi lễ, nét mặt và ngôn ngữ ký hiệu cũng được tích hợp trong định nghĩa này.

Chức năng và nhiệm vụ

Ngôn ngữ và cử chỉ đã phát triển song song trong suốt lịch sử loài người. Cho đến ngày nay, có một mối liên hệ chặt chẽ giữa giao tiếp ngôn ngữ và cử chỉ. Cử chỉ đóng một vai trò quan trọng trong các nghi thức tôn giáo và xã hội, nhưng được sử dụng trong một chức năng khác với các cử chỉ hàng ngày. Cử chỉ trong giao tiếp giữa các cá nhân nhằm thiết lập, xác nhận, thay đổi hoặc khôi phục các mối quan hệ. Đã có trong thế kỷ 17 sách với danh sách các cử chỉ minh họa đã được viết. Bắt đầu từ thế kỷ 19, đã có nhiều hướng dẫn về cách sử dụng cử chỉ phi ngôn ngữ để nhấn mạnh giao tiếp trong các bài phát biểu trước đám đông. Cử chỉ được chia thành hai nhóm, cử chỉ tự chủ và cử chỉ kèm theo lời nói. Cử chỉ tự động có thể thay thế lời nói, chẳng hạn như khi chỉ vào chỗ ngồi có sẵn, tức là sử dụng cử chỉ trỏ. Cử chỉ kết hợp với lời nói nhằm mục đích nhấn mạnh những gì đang được nói. Những người được gọi là họa sĩ minh họa này có mục tiêu truyền đạt điều gì đó rõ ràng hơn đến môi trường. Với sự trợ giúp của cử chỉ, một bức tranh rõ ràng về khung cảnh sẽ được truyền tải trong tâm trí, điều không phải lúc nào cũng chỉ bằng lời nói. Cử chỉ thường là một dạng ngôn ngữ được đơn giản hóa, nhưng cũng giống như ngôn ngữ, nó truyền tải một hình ảnh, một ý nghĩ hoặc một trí nhớ của người kể chuyện. Điểm chung của cử chỉ và ngôn ngữ: chúng có cùng một chức năng trong cùng một thời điểm, nhưng thể hiện nó theo những cách khác nhau. Với sự trợ giúp của cử chỉ, hình ảnh rõ ràng về cảnh vật sẽ được truyền tải trong tâm trí, điều này không phải lúc nào cũng xảy ra với lời nói.

Bệnh tật

Khả năng thể hiện cử chỉ bị hạn chế chủ yếu xảy ra sau tai nạn, khi bàn tay không còn hoạt động bình thường. Tuy nhiên, những bất thường trong cử chỉ cũng xuất hiện trong các rối loạn tâm thần. Sau đó, nó có thể giảm hoặc tăng truyền động. Thường có các chuỗi chuyển động theo khuôn mẫu. Cử chỉ cũng bị xáo trộn trong quá trình mất ngôn ngữ. Rối loạn ngôn ngữ xảy ra do bệnh của bán cầu trái của não, chủ yếu sau một đột quỵ. Tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng của nó, chứng mất ngôn ngữ không chỉ ảnh hưởng đến khả năng nói và hiểu mà còn ảnh hưởng đến khả năng đọc, viết và số học. Nét mặt và cử chỉ cũng thường bị xáo trộn. Sau tai nạn hoặc não bệnh tật, những người bị ảnh hưởng phải đối phó với tình trạng mất khả năng nói hoặc ngôn ngữ. Sau đó, cử chỉ được sử dụng để bù đắp, nhưng không thực hiện những gì ngôn ngữ nói sẽ làm. Rối loạn ngôn ngữ càng nặng, người bị ảnh hưởng càng tạo ra nhiều cử chỉ đa dạng hơn. Các cử chỉ sau đó được bù đắp và thay thế cho việc giao tiếp bằng lời nói hạn chế. Ở một người khỏe mạnh, bộ quy tắc về cử chỉ nói chung là dễ hiểu và tuân theo các chuẩn mực xã hội. Đã bị tâm lý căng thẳng các thay đổi xảy ra, tự thể hiện khá khác biệt. Một người giảm khả năng giao tiếp đáng kể, do đó cũng hạn chế cử chỉ, người kia tỏ ra căng thẳng hơn với những cử chỉ phóng đại và nhận xét không phù hợp. Một căn bệnh nghiêm trọng trong đó cử chỉ thay đổi rõ ràng là Hội chứng Tourette. Hành vi sai trái được môi trường cho là rất đặc biệt, nhưng người bệnh không sử dụng nó một cách có ý thức. Ghi nhận những cử chỉ càu nhàu, nhăn mặt, nháy mắt và tục tĩu ở mũi. Người bị ảnh hưởng thường bị kỳ thị và ngày càng thu mình vào cô lập.