Argatroban: Tác dụng, Công dụng, Tác dụng phụ

Argatroban hoạt động như thế nào

Argatroban cản trở quá trình đông máu bằng cách ức chế enzyme liên quan, trombin - do đó hoạt chất này là chất ức chế trực tiếp trobin.

Thrombin thường được kích hoạt bởi các enzyme mà bản thân chúng được kích hoạt do tổn thương mạch máu hoặc dị vật trong máu. Sau đó, nó chuyển đổi fibrinogen ở vị trí bị ảnh hưởng thành fibrin – “chất keo” giữ cục máu đông lại với nhau.

Bằng cách ức chế trombin, Argatroban can thiệp vào quá trình này. Tuy nhiên, nó chỉ được sử dụng ở những bệnh nhân trước đây đã mắc bệnh giảm tiểu cầu do heparin (HIT) loại II. Đây là một dạng thiếu hụt tiểu cầu có thể được gây ra như một tác dụng phụ nguy hiểm của việc điều trị bằng thuốc chống đông máu heparin.

Quá trình đông máu không bị ức chế ở những người bị ảnh hưởng mà lại tăng lên một cách nghịch lý. Do đó, những bệnh nhân này không được dùng thêm heparin trong bất kỳ trường hợp nào, nếu không sẽ có nhiều cục máu đông hình thành trong máu và làm tắc nghẽn mạch máu. Thay vào đó, Argatroban được sử dụng để duy trì khả năng chống đông máu.

Hấp thu, thoái hóa và bài tiết

Khi nào Argatroban được sử dụng?

Argatroban được sử dụng ở những bệnh nhân trưởng thành bị giảm tiểu cầu do heparin (HIT) khi họ cần điều trị bằng thuốc chống đông máu.

Thời gian điều trị không được vượt quá hai tuần. Trong từng trường hợp riêng lẻ, liệu pháp điều trị có thể được thực hiện trong thời gian dài hơn dưới sự giám sát y tế.

Cách sử dụng Argatroban

Thuốc chống đông máu Argatroban chỉ có sẵn trên thị trường dưới dạng cô đặc để pha chế dung dịch tiêm truyền. Chất cô đặc này được bác sĩ pha loãng và sau đó dùng bằng bơm truyền hoặc bơm tiêm. Lượng hoạt chất được sử dụng tùy thuộc vào cân nặng và tình trạng sức khỏe của bệnh nhân.

Trong quá trình điều trị, các giá trị đông máu phải được theo dõi chặt chẽ.

Những tác dụng phụ của Argatroban là gì?

Một trong mười đến một trăm người được điều trị bằng Argatroban gặp phải các tác dụng phụ dưới dạng thiếu máu, chảy máu, đông máu trong tĩnh mạch sâu, buồn nôn và ban xuất huyết (nhiều vết xuất huyết cỡ đầu đinh dưới da).

Ngoài ra, các tác dụng phụ đôi khi phát triển, bao gồm nhiễm trùng, chán ăn, lượng natri và lượng đường trong máu thấp, nhức đầu, chóng mặt, suy giảm thị lực và khả năng nói, tê, huyết áp cao hoặc thấp, đánh trống ngực và các vấn đề về tim khác.

Cần cân nhắc điều gì khi sử dụng Argatroban?

Chống chỉ định

Argatroban không được sử dụng trong:

  • mẫn cảm với hoạt chất hoặc với bất kỳ thành phần nào khác của thuốc
  • chảy máu không kiểm soát
  • suy gan nặng

Tương tác thuốc

Nếu Argatroban được dùng đồng thời với các thuốc chống đông máu khác (như ASA/axit acetylsalicylic, clopidogrel, phenprocoumon, warfarin, dabigatran), nguy cơ chảy máu có thể tăng lên. Điều này cũng áp dụng cho việc sử dụng ASA làm thuốc giảm đau, ibuprofen và diclofenac (các thuốc giảm đau khác).

Các chế phẩm tiêm truyền có chứa thành phần hoạt chất argatroban có chứa ethanol (rượu uống được) để cải thiện khả năng hòa tan. Do đó, chúng có thể gây nguy cơ sức khỏe cho bệnh nhân gan, người nghiện rượu, người động kinh và bệnh nhân mắc một số bệnh về não. Ngoài ra, không thể loại trừ khả năng tương tác với metronidazole (kháng sinh) và disulfiram (thuốc cai nghiện rượu).

Giới hạn độ tuổi

Dữ liệu về việc sử dụng Argatroban ở trẻ em và thanh thiếu niên dưới 18 tuổi còn hạn chế. Không có khuyến nghị nào có thể được đưa ra về liều lượng.

Mang thai và cho con bú

Người ta không biết liệu argatroban có đi vào sữa mẹ hay không. Các nghiên cứu trên động vật ở loài gặm nhấm có chứa argatroban được đánh dấu phóng xạ cho thấy có sự tích tụ trong sữa mẹ. Vì lý do an toàn, không nên sử dụng cho bà mẹ đang cho con bú. Nếu cần thiết, việc cho con bú phải bị gián đoạn trong thời gian điều trị.

Cách mua thuốc có chứa Argatroban

Argatroban chỉ được bán theo đơn ở Đức, Áo và Thụy Sĩ, nhưng không được kê đơn vì nó phải được sử dụng trong môi trường nội trú dưới sự giám sát của bác sĩ.

Argatroban đã được biết đến bao lâu rồi?

Thuốc chống đông máu Argatroban lần đầu tiên được phê duyệt tại Nhật Bản vào năm 1990. Mười năm sau, loại thuốc này được Hoa Kỳ phê duyệt để điều trị cục máu đông ở bệnh nhân HIT.

Năm 2002, sự chấp thuận đã được mở rộng cho những bệnh nhân trước đây đã mắc HIT hoặc có nguy cơ mắc bệnh này. Sản phẩm đầu tiên có mặt ở Đức và Áo với thành phần hoạt chất argatroban đã được phê duyệt vào năm 2010. Sự phê duyệt tiếp theo ở Thụy Sĩ vào năm 2014.