Tamoxifen

Giới thiệu

Hoạt chất tamoxifen, thường được sử dụng ở dạng muối, tức là tamoxifen dihydrogen citrate, là một chất điều biến thụ thể estrogen có chọn lọc (SERM). Trong quá khứ, các hoạt chất của nhóm này còn được gọi là kháng nguyên. Các thành phần hoạt tính của nhóm này làm trung gian hoạt động của chúng thông qua các thụ thể estrogen có trong các mô khác nhau, chẳng hạn như tuyến yên (hypophysis), vú, tử cung và xương.

Nói một cách dễ hiểu, tamoxifen gây giảm sự phân chia tế bào ở các mô phụ thuộc vào estrogen; do đó, một mặt, mô bị hư hỏng và mặt khác, sự phát triển thêm của mô bị ngăn cản. Tamoxifen thường được dùng dưới dạng viên nén bao phim. Các viên nén chứa 10 mg, 20 mg, 30 mg hoặc 40 mg tamoxifen.

Bác sĩ điều trị xác định liều lượng sử dụng. Liều hàng ngày 20 mg thường là đủ. Tamoxifen là một loại thuốc theo toa.

Tamoxifen là một tiền chất, tức là một dược chất có hoạt tính thấp chỉ được chuyển hóa thành hoạt chất thông qua một quá trình chuyển hóa (chuyển hóa) trong cơ thể. Trong trường hợp của tamoxifen, một loại enzym thuộc họ enzym cytochrom P450 chịu trách nhiệm cho việc này. Enzyme này được gọi là CYP2D6 và chuyển tamoxifen thành chất chuyển hóa có hoạt tính endoxifen.

Được biết, gen của enzym CYP2D6 có thể có cấu trúc khác nhau ở những cá thể khác nhau (đa hình gen). Do đó, bước hoạt hóa từ tamoxifen đến endoxifene có thể khác nhau ở những cá nhân khác nhau. Ở những người được gọi là chất chuyển hóa tamoxifen khởi phát chậm, việc kích hoạt và do đó cũng làm chậm tác dụng của thuốc, đó là lý do tại sao những bệnh nhân này có thể được hưởng lợi từ một liệu pháp thay thế. Nói chung, nên xác định kiểu gen CYP2D6 để loại trừ các bất thường có thể có của gen trước khi bắt đầu điều trị.

Phương thức hoạt động (dược lực học)

Như đã mô tả ở trên, tamoxifen là một chất điều biến thụ thể estrogen chọn lọc (SERM) hoạt động bằng cách liên kết với các thụ thể estrogen. Các chất chuyển hóa có hoạt tính 4-hydroxytamoxifen và endoxifen, được hình thành từ tamoxifen, có liên kết mạnh hơn với các thụ thể estrogen. Tamoxifen có thể được mô tả như một chất chủ vận một phần.

Chất chủ vận một phần là chất liên kết với thụ thể và do đó bắt chước một phần hoạt động của chất thực tế liên kết với thụ thể này (ví dụ như hormone estrogen trong trường hợp thụ thể estrogen). So với chất chủ vận toàn phần, chất chủ vận một phần chỉ gây ra sự hoạt hóa không hoàn toàn của dòng tín hiệu liên quan đến thụ thể. Trong đó chất chủ vận một phần ngăn cản sự liên kết của chất chủ vận hoàn toàn hoặc thay thế nó khỏi sự liên kết, tác dụng của chất chủ vận toàn phần bị ức chế một phần bởi chất chủ vận một phần.

Đối với tamoxifen, điều này có nghĩa là tamoxifen một mặt có thành phần hoạt tính estrogen, nhưng mặt khác cũng là thành phần hoạt tính kháng dị ứng. Thành phần kháng dị ứng được tạo ra bởi sự dịch chuyển của estrogen khỏi liên kết thụ thể của nó. Thành phần nào chiếm ưu thế phụ thuộc vào loại mô.

Trong mô vú, thụ thể estrogen của ER? loại chủ yếu được tìm thấy, trong đó tamoxifen phát huy tác dụng kháng dị ứng. Điều này giải thích tác dụng chống khối u của tamoxifen đối với ung thư vú. Tác dụng estrogen của tamoxifen đối với tử cung giải thích sự gia tăng của các thay đổi lành tính và ác tính trong tử cung và nội mạc tử cung.