Ưu điểm | Siêu âm

Ưu điểm

Siêu âm là một trong những thủ tục được sử dụng thường xuyên nhất để chẩn đoán và giám sát của các bệnh trong y học. Điều này là do thực tế là siêu âm có một số ưu điểm so với các phương pháp khác: nó rất nhanh và có thể được thực hiện tốt mà không cần thực hành nhiều, an siêu âm máy có thể được tìm thấy ở mọi bệnh viện và cũng có thể trong hầu hết các cơ sở y tế. Có thậm chí còn nhỏ siêu âm thiết bị dễ vận chuyển để có thể thực hiện siêu âm ngay tại giường bệnh nếu cần thiết. Bản thân việc kiểm tra không gây đau đớn cho bệnh nhân và không có bất kỳ rủi ro nào, trái ngược với các thủ thuật chẩn đoán hình ảnh khác (chẳng hạn như X-quang hoặc chụp cắt lớp vi tính), nơi cơ thể đôi khi tiếp xúc với một lượng bức xạ không đáng kể. Ngoài ra, siêu âm hiện nay khá rẻ.

Rủi ro

Theo kiến ​​thức hiện nay, siêu âm y tế không có tác dụng phụ và rủi ro. Ngay cả khi việc giải thích hình ảnh siêu âm có vẻ khó khăn đối với người giáo dân, nhiều bệnh có thể được phát hiện bằng siêu âm. Sonography rất phù hợp để phát hiện chất lỏng tự do (ví dụ như u nang Baker), nhưng cấu trúc mô như cơ và gân cũng có thể được đánh giá tốt (Rotator cuff, Gân Achilles).

Ưu điểm lớn của phương pháp khám này là khả năng khám động. Ngược lại với tất cả các phương pháp hình ảnh khác (X-quang, MRI, chụp cắt lớp vi tính), có thể khám khi di chuyển và hình dung các bệnh chỉ xảy ra khi di chuyển. Có nhiều phương pháp khác nhau để trình bày kết quả đo của một cuộc kiểm tra siêu âm.

Chúng được gọi là thời trang, xuất phát từ từ tiếng Anh để chỉ phương pháp hoặc thủ tục. là bài tiết trong xoang cạnh mũi). Chữ “A” trong A-Mode là viết tắt của điều chế biên độ. Tiếng vọng phản xạ được đầu dò thu nhận và vẽ biểu đồ trong đó trục X biểu thị độ sâu xuyên thấu và trục Y biểu thị cường độ dội âm.

Điều này có nghĩa là càng lên xa đường cong đo lường thì mô càng có nhiều tiếng vang ở độ sâu xác định. Chế độ phổ biến nhất được sử dụng ngày nay là chế độ B (“B” là viết tắt của Điều chế độ sáng). Với phương pháp hiển thị này, cường độ của tiếng vang được hiển thị bằng cách sử dụng các mức độ sáng khác nhau.

Do đó, giá trị xám riêng lẻ của một pixel đại diện cho biên độ của tiếng vọng tại vị trí cụ thể đó. Trong chế độ B, một sự khác biệt rõ ràng hơn được thực hiện giữa chế độ M và chế độ thời gian thực 2D. Trong chế độ thời gian thực 2D, hình ảnh hai chiều được tạo ra trên màn hình siêu âm, bao gồm các đường riêng lẻ (mỗi đường được tạo ra bởi một chùm tia phát ra và nhận lại).

Mọi thứ xuất hiện màu đen trong hình ảnh này là (ít nhiều) chất lỏng, trong khi không khí, xương và canxi được hiển thị bằng màu trắng. Để đánh giá tốt hơn một số mô, đôi khi sử dụng các chất cản quang đặc biệt (phương pháp này chủ yếu được sử dụng để siêu âm vùng bụng) rất hữu ích. Một số thuật ngữ được sử dụng để mô tả siêu âm: Hình dạng của hình ảnh hiển thị trên màn hình phụ thuộc vào đầu dò được sử dụng.

Tùy thuộc vào việc sử dụng đầu dò nào và độ sâu thâm nhập, phương pháp này có thể tạo ra hơn một trăm hình ảnh hai chiều mỗi giây. Chế độ M (đôi khi còn được gọi là Chế độ TM: chuyển động (thời gian)) sử dụng tần số lặp lại xung cao (từ 1000 đến 5000 Hz). Trong chế độ này, trục X là trục thời gian và trục Y hiển thị biên độ của các tín hiệu nhận được.

Điều này cho phép biểu diễn một chiều các chuyển động của các cơ quan. Để thu được thông tin có ý nghĩa hơn, phương pháp này thường được kết hợp với chế độ thời gian thực 2D. Chế độ M được sử dụng đặc biệt thường xuyên trong siêu âm tim, vì nó cho phép cá nhân tim van và một số vùng cơ tim cần được kiểm tra riêng biệt.

Phương pháp này cũng có thể được sử dụng để phát hiện rối loạn nhịp tim ở thai nhi. Từ đầu thế kỷ 21, các phương pháp siêu âm đa chiều cũng đã có sẵn: siêu âm 3D tạo ra hình ảnh tĩnh không gian. Dữ liệu đã ghi được máy tính nhập vào ma trận 3D và tạo ra hình ảnh mà giám khảo có thể xem từ các góc độ khác nhau.

Siêu âm 4D (hay còn gọi là siêu âm 3D trực tiếp) là một biểu diễn ba chiều trong thời gian thực, có nghĩa là chiều thời gian được thêm vào ba chiều không gian. Do đó, với sự trợ giúp của phương pháp này, bác sĩ có thể hình dung các chuyển động (ví dụ như của một đứa trẻ chưa sinh hoặc của tim) thực tế dưới dạng video.

  • Anechogen có nghĩa là không có tiếng vang
  • Hypoechogen có nghĩa là tiếng vang thấp,
  • Isoechogenic có nghĩa là tương đương với tiếng vang và
  • Hyperechogen có nghĩa là tiếng vang.