Biểu hiện trên khuôn mặt: Chức năng, Nhiệm vụ, Vai trò & Bệnh tật

Con người thể hiện bản thân không chỉ bằng lời nói, mà còn bằng cử chỉ và nét mặt. Không thể tưởng tượng các cuộc trò chuyện mà không có biểu hiện trên khuôn mặt. Nó truyền đạt cảm xúc và nhấn mạnh lời nói và cử chỉ một cách phi ngôn ngữ.

Biểu cảm trên khuôn mặt là gì?

Biểu cảm khuôn mặt là một phần thiết yếu của ngôn ngữ cơ thể. Nó còn được gọi là biểu cảm khuôn mặt hoặc biểu cảm khuôn mặt và sử dụng nhiều cơ mặt. Biểu cảm khuôn mặt là một phần thiết yếu của ngôn ngữ cơ thể. Nó còn được gọi là nét mặt hoặc nét mặt và sử dụng nhiều cơ mặt. Sự tương tác của chúng và sự co lại của cơ mặt chịu trách nhiệm về biểu hiện trên khuôn mặt của một người. Để tạo thành một hình ảnh tổng thể - một biểu cảm trên khuôn mặt - các bộ phận cơ riêng lẻ khác nhau được sử dụng. Các miệng và mắt là biểu cảm nhất và được nhấn mạnh bởi sự co lại của các cơ. Nhưng lông mày và trán cũng đóng một vai trò quyết định. Các chuyển động cần thiết cho một biểu thức tổng thể diễn ra trong vòng vài phần giây và truyền tải một hình ảnh nhất định đến đối tác. Cùng với tư thế và cử chỉ, nét mặt là một trong những thành phần quan trọng nhất của giao tiếp phi ngôn ngữ. Các từ liên quan “kịch câm” và “bắt chước” được sử dụng trong lĩnh vực sân khấu và được sử dụng một cách thông tục cho một màn biểu diễn cường điệu. Ngoài ra, có những vở kịch không lời, trong đó các diễn viên phải truyền tải câu chuyện chỉ thông qua ngôn ngữ cơ thể của họ. Điều này cho thấy tầm quan trọng trong giao tiếp của nét mặt. Trong cuộc sống hàng ngày, nét mặt có thể nhấn mạnh hoặc bác bỏ những gì được nói và do đó gây ra những cảm giác khác nhau ở người đối thoại.

Chức năng và nhiệm vụ

Các biểu hiện trên khuôn mặt hàng ngày thực hiện các chức năng và nhiệm vụ khác nhau. Trước hết, nó cùng chịu trách nhiệm về việc bày tỏ tình cảm. Nó thể hiện cảm xúc, thể hiện sự buồn bã, tức giận, bối rối, hoài nghi hoặc vui vẻ và do đó không thể thiếu trong các cuộc trò chuyện. Nó giúp người đối thoại đánh giá tình huống tốt hơn hoặc hiểu được trạng thái cảm xúc hiện tại của đối phương. Sự thiếu biểu cảm trên khuôn mặt của người đối diện nhanh chóng gây ra sự nhầm lẫn và khiến mọi người cảm thấy bất an, vì các từ không được gạch chân thêm. Do đó, một khía cạnh quan trọng bị thiếu, điều này chỉ ra rằng, điều đã nói sẽ được sử dụng như thế nào, theo đó giới hạn một phần của ngôn ngữ cũng trở nên rõ ràng. Ngoài ra, nét mặt còn có chức năng dạy dỗ và do đó thuộc một trong những yếu tố tương tác đầu tiên giữa cha mẹ và con cái. Vì vậy, nét mặt có một sức hấp dẫn và chức năng giao tiếp và có thể được sử dụng ngay cả khi trẻ chưa hiểu từ đủ. Cùng với giọng nói, nét mặt đóng một vai trò quan trọng đối với trẻ sơ sinh và trẻ mới biết đi. Điều này cũng tương tự trong giao tiếp hàng ngày với những người không nói cùng một ngôn ngữ. Tuy nhiên, thông qua cử chỉ và nét mặt, tương tác là có thể. Tuy nhiên, việc diễn giải nét mặt của người đối thoại thường không dễ dàng. Điều này là do một động lực nhất định mà mỗi người có. Những đặc thù và những chuyển động cụ thể của cơ mặt có thể trở thành những đặc điểm điển hình nhất định của một người. Do đó, việc hiểu sai trong biểu cảm khuôn mặt không phải là hiếm. Thông thường, ngay cả những thay đổi nhỏ trong biểu hiện cũng có thể thể hiện một cảm xúc trái ngược. Việc giải thích các biểu hiện trên khuôn mặt là chủ quan. Những người khác nhau cảm nhận các biểu hiện trên khuôn mặt khác nhau và diễn giải chúng theo cách khác nhau. Nhiều cách diễn giải là theo bản năng, và thường những điều nhỏ nhặt bị người đối thoại hiểu sai. Ví dụ, sự hiểu lầm xảy ra cần phải làm rõ bằng lời nói. Tuy nhiên, nét mặt cũng có thể che giấu cảm xúc thực tế và che đậy cảm xúc. Vì vậy, nó không phải là một dấu hiệu đáng tin cậy về những gì đang thực sự diễn ra ở người kia. Tùy thuộc vào tình huống trong cuộc sống, các biểu hiện trên khuôn mặt được sử dụng một cách chính xác có thể mang lại những lợi thế quyết định. Ví dụ, một biểu cảm khuôn mặt phù hợp không được đưa vào có thể có tác dụng tích cực trong các bài phát biểu, thuyết trình hoặc phỏng vấn xin việc.

Bệnh tật và phàn nàn

Trong bối cảnh của các bệnh khác nhau, các biểu hiện trên khuôn mặt bị xáo trộn. Chúng bao gồm, ví dụ, các triệu chứng tê liệt khác nhau hạn chế hoặc thậm chí chặn hoàn toàn các chuyển động của cơ mặt. Ví dụ như tê liệt như vậy có thể dẫn đến tai nạn đã gây ra tổn thương thần kinh. Ngoài ra, đau cơ or chuột rút cũng có thể xảy ra ở mặt, gây khó chịu trong một thời gian, nhưng thường giảm nhanh chóng. Bệnh Parkinson thường phải đối mặt với việc hạn chế các biểu hiện trên khuôn mặt trong quá trình mắc bệnh của họ. Tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng, điều này có thể dẫn mặt nạ. Nét mặt trở nên cứng nhắc. Apraxia là một chứng rối loạn các chuyển động tự nguyện. Do đó, các biểu hiện trên khuôn mặt không thường xuyên bị ảnh hưởng. Đột quỵ là tác nhân thường xuyên ở đây. Nhưng sa sút trí tuệ, khối u, đa xơ cứng or nghiện rượu cũng có thể là lý do gây ra tình trạng ngưng thở. Ngoài ra, các bệnh tâm thần cũng có thể ảnh hưởng đến nét mặt. Ví dụ, tâm thần phân liệt bệnh nhân có thể cảm thấy rối loạn nét mặt và cử chỉ. Không có gì lạ khi biểu hiện trên khuôn mặt không phù hợp với tâm trạng của người bệnh. Các dạng tương tự cũng có thể được quan sát thấy ở những người có bệnh tự kỷ, những người có xu hướng tránh tiếp xúc với người khác, tùy theo mức độ nghiêm trọng. Đối với lĩnh vực nhận thức các biểu hiện trên khuôn mặt thuộc về cái gọi là prosopagnosia. Thuật ngữ này xuất phát từ tiếng Hy Lạp và đề cập đến một chứng rối loạn trong đó nhận thức về trường thị giác bị xáo trộn. Nó là một khuôn mặt trong đó những người đã biết không thể được xác định bằng nét mặt của họ. Lý do cho điều này có thể là đột quỵ hoặc tai nạn gây ra thiệt hại cho não. Tuy nhiên, một số dạng của bệnh cũng có tính di truyền. Lý do cho điều này vẫn chưa được biết.