Sữa Mẹ: Chất Dinh Dưỡng, Tế Bào Bảo Vệ, Sự Hình Thành

Sữa mẹ được sản xuất như thế nào?

Việc sản xuất và giải phóng (tiết) sữa mẹ được gọi là tiết sữa. Nhiệm vụ này được thực hiện bởi các tuyến vú. Các hormone estrogen, progesterone, lactogen nhau thai người (HPL) và prolactin chuẩn bị cho vú cho con bú ngay trong khi mang thai.

Tuy nhiên, việc sản xuất sữa chỉ bắt đầu có hiệu quả sau khi sinh, khi nhau bong ra khiến nồng độ estrogen và progesterone giảm nhanh chóng và nồng độ prolactin tăng lên.

Ngoài việc bổ sung hormone phù hợp vào đúng thời điểm, cần kích thích bú thường xuyên để kích hoạt dòng sữa. Điều này là do cơ thể chỉ tiếp tục tiết ra prolactin khi trẻ thường xuyên ngậm vú và mút mạnh núm vú nên việc sản xuất không ngừng lại. Ngoài ra, “hormone âu yếm” oxytocin còn kích thích các tế bào của tuyến sữa – các tế bào co bóp và ép sữa vào ống dẫn sữa.

Sữa mẹ: thành phần

Ngoài nước, sữa mẹ còn chứa:

  • Đường sữa (lactose)
  • Carbohydrates
  • Protein (chất đạm)
  • Chất béo
  • Vitamin
  • Khoáng sản
  • Axit cacboxylic
  • Hormones
  • Enzymes
  • yếu tố tăng trưởng
  • tế bào miễn dịch của mẹ

Trong quá trình cho con bú, không chỉ màu sắc, độ đặc mà cả thành phần cũng thay đổi: sữa mẹ chứa ít protein và ít lactose hơn nhưng nhiều calo và hàm lượng chất béo cao hơn sữa non hình thành lúc đầu. Tuy nhiên, nồng độ cũng khác nhau trong bữa ăn cho con bú: Như vậy, với ngụm đầu tiên, trẻ sơ sinh chủ yếu nhận được protein, khoáng chất và vitamin, sau đó chỉ là sữa giàu chất béo, năng lượng cao.

Tỷ lệ tế bào miễn dịch cao (xem thêm phần tiếp theo) làm cho sữa mẹ và sữa non đặc biệt có giá trị đối với trẻ: các tế bào miễn dịch của mẹ bảo vệ trẻ khỏi bị nhiễm trùng.

Sữa mẹ: Chất tăng cường sức khỏe

Ngoài vitamin và chất dinh dưỡng, sữa mẹ còn có các thành phần tăng cường miễn dịch quan trọng sau:

  • Globulin miễn dịch (IgA, IgG, IgM, IgD)
  • Hệ thống bổ sung: Hệ thống các protein huyết tương khác nhau có thể loại bỏ các tác nhân truyền nhiễm.
  • Lysozyme: enzyme có khả năng hòa tan màng tế bào vi khuẩn
  • Lactoferrin: Protein có thể liên kết sắt để vi khuẩn không thể sử dụng nó để phát triển nữa
  • Lactoperoxidaza
  • Fibronectin: chống viêm
  • Glycoprotein: ngăn chặn sự bám dính của vi khuẩn và virus
  • Oligosaccharides
  • chất kháng khuẩn

Một nghiên cứu gần đây đã chứng minh được một hoạt chất quan trọng khác trong sữa mẹ: Glycerol Monolaureate (GML) có tác dụng chống viêm, có thể phân biệt vi khuẩn có lợi và vi khuẩn có hại và đặc biệt chống lại vi khuẩn có hại.

Hoạt chất GML cũng có thể được sản xuất khá dễ dàng và không tốn kém. Các chuyên gia cho rằng các nhà sản xuất sữa nhân tạo dành cho trẻ em sẽ tích hợp nó vào sản phẩm của họ.

Sữa mẹ tốt cho sức khỏe!

Không chỉ sự gần gũi về thể chất, sự an toàn và tiếp xúc với da khi cho con bú mới có tác động tích cực đến trẻ mà còn cả các thành phần của sữa mẹ: chúng biến sữa mẹ trở thành một loại cocktail tốt cho sức khỏe vượt trội. Điều này thể hiện rõ ở trẻ bú mẹ so với trẻ không được bú mẹ. Bởi vì cho con bú…

  • hỗ trợ hệ thống miễn dịch của trẻ
  • giảm nguy cơ dị ứng ở trẻ em
  • tăng cường hệ thực vật đường ruột của trẻ

Các tế bào có khả năng miễn dịch, các yếu tố tăng trưởng và oligosacarit ức chế tình trạng viêm, củng cố niêm mạc ruột còn nhạy cảm của trẻ và ngăn ngừa mầm bệnh bám vào màng nhầy. Nhưng không chỉ chống lại vi trùng trong dạ dày và ruột, sữa mẹ còn bảo vệ chống lại các mầm bệnh từ môi trường.

Ngoài ra, các thành phần của sữa mẹ hỗ trợ hệ thống miễn dịch của trẻ khi trẻ trưởng thành: không mất thời gian, nó được cung cấp các chất bảo vệ (kháng thể = globulin miễn dịch) chống lại các bệnh như sởi, ho gà hoặc thủy đậu, những bệnh có thể có biểu hiện nghiêm trọng. hậu quả đối với trẻ sơ sinh không được tiêm chủng

Sữa non chữa bệnh thần kỳ

Vi khuẩn trong sữa mẹ

Ngoài ra còn có một số vi khuẩn trong sữa mẹ. Chúng giúp trẻ tiêu hóa và bảo vệ chống lại bệnh tật. Một nghiên cứu gần đây của các nhà nghiên cứu Canada, Iran và Israel cho thấy sữa mẹ giúp trẻ phát triển hệ vi khuẩn đường ruột khỏe mạnh: Một số vi khuẩn được phát hiện trong sữa mẹ và trong phân của trẻ bú mẹ – mối tương quan này được quan sát đặc biệt thường xuyên ở trẻ bú mẹ trực tiếp .

Ngoài ra còn có các vi khuẩn axit lactic như Lactobacillussalrius và Lactobacillus gasseri. Chúng không chỉ bảo vệ niêm mạc ruột và tăng cường hàng rào ruột ở trẻ mà còn có thể giúp giảm viêm vú (viêm vú) nếu người mẹ dùng chúng. Hiện nay, người ta đang nỗ lực sử dụng các chất probiotic nhằm tối ưu hóa vi khuẩn trong sữa mẹ để chúng có tác dụng tốt nhất.

Sữa bò không thể thay thế được!

Vì vậy, trong mọi trường hợp, đừng tự mình pha sữa thay thế mà hãy sử dụng sữa công thức dành cho trẻ sơ sinh được sản xuất công nghiệp!

So sánh sữa non, sữa mẹ và sữa bò

Chất đạm (g/dl)

Chất béo (g/dl)

Lactose (g/dl)

Lượng calo (kcal/100ml)

Sữa non

1,8

3,0

6,5

65

Sữa mẹ trưởng thành

1,3

4,0

6,0

70

Sữa bò

3,5

4,0

4,5

70

Sữa mẹ có bất lợi không?

Mặc dù có nhiều lợi ích từ việc cho con bú và sữa mẹ nhưng chế độ ăn uống tự nhiên này không hẳn là tốt nhất cho mọi em bé. Đôi khi việc cho con bú có những bất lợi về sức khỏe và có thể gây bất lợi cho một số trẻ sơ sinh. Điều này đúng, trong số những trường hợp khác, đối với trẻ sinh non chưa đủ khỏe để bú, cũng như đối với con của bà mẹ mắc bệnh tiểu đường hoặc trẻ bị bệnh. Do đó, việc bú bình có thể có lợi nếu…

  • trẻ sơ sinh sụt cân quá nhiều sau khi sinh
  • người mẹ có thể truyền bệnh nhiễm trùng cho con (ví dụ như cytomegalovirus, viêm gan, bệnh lao),
  • Trẻ bị vàng da sơ sinh trong thời gian dài hơn (vàng da sơ sinh),
  • trẻ bị thiếu vitamin D, K, B12 và/hoặc iốt,
  • Sữa mẹ bị ô nhiễm nặng nề bởi các chất ô nhiễm môi trường (xem bên dưới), rượu, nicotin hoặc thuốc.

Chất ô nhiễm trong sữa mẹ

Các môn thể thao cạnh tranh hoặc mang thai mới cũng có thể làm thay đổi nguồn sữa mẹ. Về nguyên tắc, điều này không gây hại cho trẻ sơ sinh. Đôi khi ban đầu nó không ngon chút nào. Tuy nhiên, điều quan trọng là mẹ không nên giảm cân quá nhiều trong thời gian cho con bú. Nếu không, các chất có hại từ mô mỡ của mẹ (chẳng hạn như dioxin, biphenyls polychlorin = PCB, dichlorodiphenyltrichloroethane = DDT) sẽ được giải phóng và đi vào sữa mẹ – gây bất lợi cho trẻ bú mẹ.