Tác dụng phụ | Thuốc trị nấm móng tay

Các tác dụng phụ

  • Địa phương thuốc chống co giật: Thuốc được áp dụng tại địa phương chống lại nấm móng không gây ra bất kỳ tác dụng phụ nào trong hầu hết các trường hợp. Ở từng bệnh nhân, có thể quan sát thấy kích ứng da chỉ giới hạn ở đầu ngón tay sau khi thoa dầu bóng hoặc thuốc mỡ. Những kích ứng da này thường là mẩn đỏ không biến chứng và hơi ngứa.

    Thông thường những phàn nàn này sẽ tự giảm sau vài giờ.

  • Oral thuốc chống co giậtMặt khác, thuốc hạ sốt đường uống có một số tác dụng không mong muốn của thuốc (tác dụng phụ). Bệnh nhân bị nấm móng do đó phải có sự giám sát của bác sĩ trong quá trình điều trị bằng thuốc uống trị nấm móng tay. Ngay khi quan sát thấy các đặc điểm hoặc thậm chí có khiếu nại, bệnh nhân bị ảnh hưởng cần tham khảo ngay ý kiến ​​của bác sĩ chuyên khoa điều trị.

    Chính xác những tác dụng phụ nào có thể xảy ra khi dùng đường uống thuốc chống co giật phụ thuộc vào loại chất tương ứng và liều lượng của thuốc.

  • Allylamine: Nấm móng tay thuốc từ nhóm allylamine thường được coi là dung nạp rất tốt. Các thành phần hoạt tính riêng lẻ được chuyển hóa và phân hủy trong gan. Bài tiết thực sự diễn ra sau đó qua thận.

    Vì lý do này, việc sử dụng lâu dài các loại thuốc thuộc nhóm thuốc này có thể làm mất tác dụng của cả hai ganthận Phản ứng da và rối loạn đường tiêu hóa hiếm khi được quan sát thấy khi dùng các loại thuốc nấm móng tay này.

  • Azole: Thuốc chống nấm móng tay, có thể được xếp vào nhóm azole, tuy nhiên, thường xuyên dẫn đến các tác dụng phụ dưới dạng rối loạn tiêu hóa hoặc khiếu nại trong khu vực đường tiêu hóa. Nhiều bệnh nhân cảm thấy buồn nôn và thỉnh thoảng ói mửa khi lấy azoles. Ngoài ra, các tác dụng phụ như đau đầu, các vấn đề về tuần hoàn và chóng mặt khá phổ biến với các loại thuốc này.

    Một số bệnh nhân cũng phát ban dị ứng trên da khi dùng các chất từ ​​nhóm thuốc trị nấm móng tay này. Suy yếu gan Tuy nhiên, chức năng khá hiếm với azoles.

  • Amphotericin B: Một trong những loại thuốc được biết đến nhiều nhất để điều trị bệnh nấm móng là Amphotericin B. Trái ngược với hầu hết các loại thuốc từ nhóm thuốc chống co thắt, Amphotericin B chỉ có thể được quản lý thông qua tĩnh mạch (tiêm tĩnh mạch).

    Lý do cho điều này là thực tế là thuốc này không thể được hấp thu qua đường tiêu hóa và do đó sẽ đơn giản được đào thải ra ngoài nếu không được sử dụng bằng đường uống. Các tác dụng phụ điển hình của Amphotericin B bao gồm tổn thương thận (độc với thận). Vì lý do này, thuốc thường chỉ được sử dụng cho các trường hợp nhiễm nấm rất nặng. Các tác dụng phụ khác có thể bao gồm cúmcác triệu chứng giống như sốt, nhức đầu và chân tay nhức mỏi. Nói chung, phản ứng dị ứng và không dung nạp có thể xảy ra với tất cả các loại thuốc chống nấm móng tay.