Chẩn đoán Slide | Nhiễm HIV

Chẩn đoán Trang trình bày

Xét nghiệm HIV được thực hiện theo một kế hoạch gồm hai bước - đầu tiên là xét nghiệm sàng lọc được thực hiện, xét nghiệm này được xác nhận bằng xét nghiệm xác nhận. Xét nghiệm sàng lọc là một thủ tục miễn dịch học - còn được gọi là xét nghiệm ELISA. Riêng kháng thể có thể gắn kháng nguyên của vỏ virus.

Sự liên kết này có thể được đo bằng enzym hoặc bằng huỳnh quang. Nếu xét nghiệm ELISA dương tính, xét nghiệm Western Blot được thực hiện để xác nhận. Hiệu suất của bài kiểm tra này có phần phức tạp hơn.

Một số HIV protein được chuyển đến một màng đặc biệt. Sau đó máu của bệnh nhân được thêm vào - nếu kháng thể chống lại HIV hiện diện, chúng liên kết với protein của màng. Ngoài ra, Western blot cũng cho phép phân biệt giữa HIV 1 và HIV 2.

Xét nghiệm ELISA dương tính và xét nghiệm Western blot cho phép chẩn đoán nhiễm HIV. Nếu xét nghiệm ELISA cho kết quả dương tính, nhưng điều này không thể được xác nhận bằng quy trình Western blot, thì một PCR được thực hiện. Một PCR (phản ứng chuỗi polymerase) khuếch đại RNA của virus và có thể phát hiện rất chính xác liệu có bị nhiễm HIV hay không và nồng độ của vi rút là bao nhiêu.

Tuy nhiên, vì thủ tục này rất tốn kém, nó chỉ được sử dụng cho những câu hỏi không chính xác. Để chẩn đoán nhiễm HIV, nhiều hơn một Kiểm tra hiv nên luôn luôn được thực hiện. Thông thường ELISA và quy trình Western blot được sử dụng cho mục đích này.

Họ có thể phát hiện nhiễm HIV với xác suất rất cao. Tuy nhiên, có một lỗ hổng trong chẩn đoán - trong những tuần đầu tiên nhiễm trùng, cơ thể vẫn chưa sản xuất kháng thể chống lại vi rút HIV. Tuy nhiên, nếu không có các kháng thể này, xét nghiệm cho kết quả âm tính.

Vì lý do này, nếu có nghi ngờ nhiễm HIV mạnh, xét nghiệm nên được lặp lại sau một vài tuần. Chậm nhất là sau 12 tuần, tình trạng nhiễm trùng chuyển sang dương tính, do đó cần phải tiến hành lặp lại trong thời gian này. Nếu kết quả không rõ ràng, có thể thực hiện PCR ngoài quy trình ELISA và Western blot.

Đây là một phương pháp phát hiện rất chính xác có thể cung cấp một kết quả đáng tin cậy. Thử nghiệm nhanh cũng có thể được thực hiện bởi các giáo viên một cách độc lập tại nhà. Giống như các phương pháp khác, xét nghiệm phát hiện kháng thể chống lại HIV. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng nhiễm HIV chỉ có thể được loại trừ sau 12 tuần kể từ khi phơi nhiễm, vì cơ thể cần thời gian để sản xuất các kháng thể.

Để thực hiện kiểm tra, máu trước tiên phải được vẽ. Điều này có thể được lấy từ đầu ngón tay hoặc dái tai. Sau đó máu được đưa vào test nhanh và chờ khoảng 15 - 30 phút.

Nếu xét nghiệm này dương tính, bạn nên tham khảo ý kiến ​​bác sĩ để thực hiện Kiểm tra hiv để xác nhận kết quả. Nếu kết quả là âm tính, nên làm lại xét nghiệm sau vài tuần để chắc chắn. Nếu có bất kỳ nghi ngờ nào, cũng nên đi khám.

Nhiễm HIV vẫn không thể chữa khỏi. Tuy nhiên, nó không phải là một bản án tử hình ngay lập tức. Thuốc ngày càng cải tiến duy trì và cải thiện chất lượng cuộc sống một cách đáng kể.

Những điều này được tóm tắt dưới thuật ngữ liệu pháp kháng retrovirus, tức là một phương pháp điều trị được hướng dẫn cụ thể chống lại hành vi cụ thể của loại vi rút này. Hiện nay có rất nhiều tác nhân khác nhau tấn công vào các điểm khác nhau trong vòng đời của virus. Ví dụ, sự thâm nhập của virus vào tế bào T có thể bị triệt tiêu.

Thông thường ít nhất ba tác nhân khác nhau được kết hợp. Đây được gọi là liệu pháp kháng retrovirus tích cực cao (HAART). Với sự trợ giúp của hình thức trị liệu này, tuổi thọ bình thường hiện có thể đạt được nếu bắt đầu điều trị đủ sớm.

Tuy nhiên, thuốc hiệu quả cao lại gây ra nhiều tác dụng phụ. Ví dụ, tùy thuộc vào hoạt chất, có thể có rối loạn chuyển hóa, dây thần kinh hoặc tạo máu. Vì thuốc phải dùng vĩnh viễn, điều quan trọng là phải cân nhắc giữa các tác dụng phụ so với hiệu quả của chúng để tìm ra liệu pháp tốt nhất cho cá nhân.

Hiệu quả được kiểm tra thường xuyên. Một lần nữa, số lượng tế bào T, nhưng cũng virus trong máu có vai trò. Nhiễm HIV phải luôn được điều trị, nếu không hệ thống miễn dịch bị phá hủy.

Có rất nhiều loại thuốc khác nhau có thể ức chế sự nhân lên của vi rút và có ảnh hưởng tích cực đến quá trình của bệnh. Có năm nhóm chất quan trọng trong điều trị HIV: Chất ức chế men sao chép ngược nucleoside (ví dụ: lamivudine, abacavir, emtricitabine) Chất ức chế men sao chép ngược nucleotide (ví dụ:

Tenefovir) Thuốc ức chế men sao chép ngược không nucleoside (ví dụ: chất ức chế men Protease (ví dụ: darunavir, atazanir, lopinavir) Thuốc ức chế tích hợp (ví dụ như Raltegravir, Elvitegravir, Dolutegravir) Để đạt được thành công điều trị tối ưu, các nhóm chất khác nhau được kết hợp.

Các kết hợp phổ biến là sử dụng 2 chất ức chế men sao chép ngược nucleoside hoặc nucleotide và 1 chất ức chế integration. Một phương pháp thay thế khác là sự kết hợp của 2 chất ức chế men sao chép ngược nucleosidic hoặc nucleotide và một chất ức chế men sao chép ngược không nucleosidic. Hơn nữa, có thể sử dụng 2 chất ức chế men sao chép ngược nucleosidic hoặc nucleotide và 1 chất ức chế protease.

Một số chế phẩm này có sẵn ở dạng kết hợp cố định, để bệnh nhân không phải uống nhiều viên khác nhau và không bị mất dấu những gì đang xảy ra. Liệu pháp có thể thay đổi theo từng cá nhân và cũng có thể thay đổi trong quá trình điều trị. Điều quan trọng là bệnh nhân phải dùng thường xuyên, vì nếu sử dụng không nhất quán có thể dẫn đến tình trạng kháng thuốc.

Điều này có nghĩa là vi rút phát triển theo cơ chế và thuốc không còn hiệu quả nữa. Điều này có thể ảnh hưởng rất bất lợi đến diễn biến bệnh của bệnh nhân. Ngoài ra, liệu pháp điều trị HIV phải được tiếp tục trong suốt cuộc đời của bệnh nhân.

May mắn thay, bệnh nhân HIV có tuổi thọ bình thường với một phương pháp điều trị được điều chỉnh tốt.

  • Thuốc ức chế men sao chép ngược nucleoside (ví dụ: lamivudine, abacavir, emtricitabine)
  • Các chất ức chế men sao chép ngược nucleotide (ví dụ:

    Tenefovir)

  • Thuốc ức chế men sao chép ngược không nucleoside (ví dụ: efavirenz, nevirapin, etravirin)
  • Thuốc ức chế protease (ví dụ: darunavir, atazanir, lopinavir)
  • Thuốc ức chế tích hợp (ví dụ như Raltegravir, Elvitegravir, Dolutegravir)