Các triệu chứng | Ung thư âm đạo

Các triệu chứng

Sự nguy hiểm lớn của ung thư biểu mô âm đạo (ung thư của âm đạo) nằm trong trường hợp không có triệu chứng. Bệnh nhân thường chỉ nhận thấy những thay đổi về tiết dịch hoặc chảy máu (chảy máu kinh nguyệt) khi bề mặt bị loét phân hủy. Sau đó, đặc biệt là sau khi quan hệ tình dục, có thể nhận thấy dịch tiết ra máu, nước hoặc có mùi hôi.

Nếu ung thư biểu mô âm đạo tiến triển hơn, lỗ rò có thể hình thành giữa âm đạo và bàng quang or trực tràng. Nếu khối u đã lan sang các mô xung quanh, đau bụng hoặc rối loạn cơ quan chức năng có thể xảy ra. Âm đạo ung thư nguyên nhân không đau lúc đầu và chỉ ở giai đoạn nặng mới có cơn đau ở bụng.

Sản phẩm đau tăng khi đi tiểu hoặc khi quan hệ tình dục và có thể kèm theo chảy máu hoặc tiết dịch. và đau khi đi tiểu vào âm đạo phụ nữ ung thư dẫn đến chảy nước, màu nâu từ âm đạo, có thể mùi xấu. Khối u ở thành âm đạo có thể tạo thành những vết loét nhỏ chảy máu.

Những vết loét hở này sau đó có thể được khu trú bởi vi khuẩn và bài tiết được tiết ra do nhiễm trùng. Tiết dịch bất thường là một dấu hiệu cảnh báo của ung thư âm đạo và cần được bác sĩ làm rõ ngay lập tức. Chảy máu ngoài kỳ kinh bình thường có thể là dấu hiệu của ung thư âm đạo. Ra máu có màu nâu đỏ và thường xuất hiện sau khi quan hệ tình dục.

In ung thư âm đạo, một khối u phát triển trong thành của âm đạo và xâm nhập vào mô. Ung thư thường phát triển rất nhanh và được cung cấp đầy đủ máu bởi vì các tế bào khối u cần nhiều oxy và chất dinh dưỡng từ máu. Những chấn thương nhỏ ở thành âm đạo gây ra các vết loét rỉ máu và xuất hiện hiện tượng chảy máu đặc trưng từ âm đạo.

Có những sân vận động nào?

Tùy theo mức độ của cơ thể mà ung thư âm đạo được chia thành 0 giai đoạn: Giai đoạn 1: Đây là giai đoạn rất sớm mà ung thư âm đạo chưa di căn. Khối u vẫn còn tương đối nhỏ và chỉ ảnh hưởng đến âm đạo. Giai đoạn XNUMX: Trong giai đoạn này chỉ có thành âm đạo bị ảnh hưởng bởi khối u.

Giai đoạn 2: Các tế bào khối u đã di căn vào các mô xung quanh của âm đạo. Giai đoạn 3: Khối u đã lan đến xương chậu và ảnh hưởng đến các cơ quan vùng chậu và bạch huyết các nút nằm ở đó. Giai đoạn 4-A: trực tràng hoặc là bàng quang bị ảnh hưởng bởi bệnh ung thư.

Giai đoạn 4-B: Các tế bào khối u đã di căn đến các bộ phận khác của cơ thể và đã hình thành di căn trong phổi chẳng hạn. Ban đầu, ung thư âm đạo không gây đau đớn, có nghĩa là nó có thể phát triển trong một thời gian dài cho đến khi được phát hiện. Trong giai đoạn đầu, các triệu chứng phổ biến nhất là chảy máu và tiết dịch trung gian màu nâu đỏ.

Trong giai đoạn đầu của ung thư, có những thay đổi trong màng nhầy của âm đạo. Các tế bào khối u phát triển ở các lớp trên cùng của thành âm đạo, theo đó ung thư biểu mô chỉ dày vài lớp tế bào và được gọi là ung thư biểu mô bề mặt. Bác sĩ gọi giai đoạn này là giai đoạn 0 hoặc "ung thư biểu mô tại chỗ".

Điều này có nghĩa là ung thư vẫn ở vị trí xuất phát và chưa hình thành di căn. Hơn nữa, trong giai đoạn đầu của ung thư âm đạo, bạch huyết các nút ở vùng chậu chưa bị ảnh hưởng. Khi bệnh tiến triển, khối u phát triển sâu hơn vào mô của âm đạo và cuối cùng đến thành chậu và tấn công các cơ quan khác.

Ở giai đoạn nặng, ung thư âm đạo hình thành di căn và có thể xâm lấn các cơ quan khác. Thường thì các cơ quan của khoang chậu, đặc biệt là bàng quangtrực tràng, bị ảnh hưởng đầu tiên. Sau đó, di căn lây lan qua bạch huyết các nút và dòng máu đến gan và phổi.

Bác sĩ xác định xem liệu ung thư âm đạo đã di căn hay chưa bằng phương pháp siêu âm kiểm tra hoặc chụp cắt lớp vi tính (CT) khung chậu và bụng và X-quang kiểm tra ngực. Việc chẩn đoán ung thư âm đạo thường là một phát hiện tình cờ khi khám phụ khoa định kỳ. Ung thư biểu mô tiến triển kèm theo sự phân hủy bề mặt biểu mô và chảy máu nhẹ khi chạm vào.

Điều này giúp bác sĩ phụ khoa dễ dàng nhận ra và xác định vị trí của nó. Tuy nhiên, các ung thư biểu mô nhỏ có nguy cơ bị bỏ qua. Điều này làm cho việc kiểm tra kỹ lưỡng bằng ống soi cổ tử cung trở nên quan trọng hơn.

Ngoài ra, một cuộc kiểm tra tế bào học của âm đạo biểu mô nên được thực hiện hàng năm. The Schiller i-ốt thử nghiệm cung cấp một khả năng khác: bằng cách chấm vào âm đạo biểu mô với i-ốt, biểu mô khỏe mạnh, chứa glycogen chuyển sang màu nâu đỏ. Nếu có bất kỳ bất thường nào xảy ra trong các quy trình chẩn đoán này, các cuộc kiểm tra tiếp theo sẽ được thực hiện.

Chúng thường bao gồm một sinh thiết và siêu âm để đánh giá các cơ quan xung quanh. Để làm rõ xem đường tiết niệu hoặc trực tràng có bị ảnh hưởng hay không, người ta sẽ tiến hành nội soi trực tràng và soi niệu đạo. Trong những trường hợp đặc biệt, chụp cắt lớp vi tính (CT) hoặc chụp cộng hưởng từ (MRI) cũng có thể được thực hiện cho các mục đích chẩn đoán cụ thể. Trong trường hợp này, toàn bộ khoang bụng được kiểm tra để tìm di căn và hình thành khối u.