Clostridium Botulinum: Nhiễm trùng, lây truyền và bệnh tật

Clostridium botulinum là một loại vi khuẩn hình que, sinh sản bằng cách hình thành bào tử. Có bốn nhóm con khác nhau, tất cả đều tạo ra những gì được gọi là độc tố botulinum. Điều này cũng có thể gây bệnh (gây bệnh) cho người và gây ngộ độc.

Clostridium botulinum là gì?

Clostridium botulinum được phân loại là vi khuẩn gram dương (đáp ứng với phương pháp nhuộm Gram), hình que vi khuẩn. Nó là dạng bào tử và kỵ khí, vì vậy nó không sử dụng ôxy cho các quá trình sống của nó. Có nhiều nhóm vi khuẩn khác nhau, mỗi nhóm tạo ra các loại vi khuẩn khác nhau độc tố botulinum. Trong số mười hai loại độc tố, có năm loại độc tố gây bệnh cho người. Độc tố botulinum hành động trên hệ thần kinh và là một trong những chất độc mạnh nhất được biết đến. Tác dụng của nó dựa trên sự ức chế chất dẫn truyền thần kinh (chất truyền tin) giữa dây thần kinh và cơ bắp, dẫn đến tê liệt. Khi chất độc được trung hòa, những chất độc này sẽ thoái lui.

Sự xuất hiện, phân bố và tính chất

Vi khuẩn Clostridium botulinum có hình que, gram dương và hình thành bào tử. Nó có lối sống kỵ khí nhưng khá nhạy cảm với ôxy. Tổng cộng, có bốn nhóm khác nhau, khác biệt đáng kể với nhau về mặt hóa sinh. Tuy nhiên, tất cả chúng đều tạo thành độc tố botulinum, trong đó có 1 loại khác nhau (A, B, C2, C1, D, E, F, G, H). Các loại A, B, F, E và H gây bệnh cho người. Nhóm 35 của Clostridium botulinum với độc tố A, B và F sinh sản tối ưu ở nhiệt độ từ 40 đến 112 độ C, bào tử chịu nhiệt lên đến 2 độ. Nhóm 18 với các độc tố B, E và F có nhiệt độ tối ưu từ 25 đến 80 độ C và các bào tử có khả năng chịu nhiệt lên đến XNUMX độ. Độc tố loại A và B có tác dụng gây bệnh cho người và lây truyền chủ yếu qua thực phẩm đóng hộp chế biến từ thịt, cá, rau và trái cây cũng như qua các món ăn chế biến có chứa các sản phẩm từ thịt lợn. Loại E và F của độc tố botulinum được truyền sang người qua cá và các sản phẩm biển và thịt. Họ gây ra nghiêm trọng ngộ độc thực phẩm, nhưng cũng có thể nhân lên như cái gọi là vết thương ngộ độc trong mô chết hoặc như ngộ độc thịt trẻ sơ sinh trong ruột của trẻ sơ sinh. Clostridium botulinum cũng nhân lên rất nhanh trong xác động vật và đôi khi trong nguyên liệu thực vật có chứa các thành phần protein. Chất độc có thể trở nên vô hại bằng cách đốt nóng. Nhiệt độ phải là 100 độ C trong ít nhất năm phút.

Ý nghĩa và chức năng

Botulinum toxin A, được sản xuất bởi Clostridium botulinum, thường được gọi là “Botox” và được chấp thuận sử dụng trong y tế và mỹ phẩm. Nó gây tê liệt cơ. Thuộc tính này được sử dụng trong lĩnh vực mỹ phẩm cho điều trị nếp nhăn ở vùng da mặt bằng cách tiêm thuốc. Tác dụng của Botox tiêm thuốc kéo dài khoảng ba đến sáu tháng, và nếp nhăn không còn nhìn thấy được nữa. Trong lĩnh vực y tế, botulinum toxin A được sử dụng để điều trị chứng co thắt và liệt cứng. Độc tố cũng được sử dụng dưới dạng thuốc chữa ra mồ hôi nhiều hoặc tiết nước bọt. Khi điều trị bằng độc tố botulinum, các tác dụng phụ như nhiễm trùng, bầm tím hoặc rối loạn thị giác có thể xảy ra với cơ địa tiêm thuốc.

Bệnh tật và tình trạng y tế

Độc tố của Clostridum botulinum là một trong những chất độc mạnh nhất. Bào tử có thể nảy mầm và tạo ra độc tố, đặc biệt là trong đồ hộp kín có chứa thịt, cá, rau và trái cây. Điều này đặc biệt ảnh hưởng đến thực phẩm đóng hộp quá nóng và tự làm. Trong sản xuất thực phẩm, sự nhân lên của vi khuẩn bị ngăn cản bởi nhiệt khử trùng hoặc cũng bằng cách ngâm chua. Ngộ độc với độc tố botulinum còn được gọi là ngộ độc. Đây là một trường hợp ngộ độc đáng chú ý xảy ra trong vòng từ hai giờ đến 14 ngày sau khi ăn thực phẩm có độc tố. Thời gian ủ bệnh này càng ngắn thì diễn biến của bệnh càng nặng. Tác động của chất độc này dựa trên việc ngăn chặn sự truyền tín hiệu từ các tế bào thần kinh đến các cơ. Theo quy luật, các cơ mắt bị ảnh hưởng đầu tiên, xảy ra hiện tượng mờ mắt và nhìn đôi, mắt nhắm lại và đồng tử giãn ra. Khi nó tiến triển, các cơ của môi, lưỡi và vòm miệng bị ảnh hưởng. Khô nghiêm trọng miệng, nuốt và rối loạn ngôn ngữ Các triệu chứng thường xuất hiện mà không có sốt. Trong một quá trình nghiêm trọng, tê liệt lan đến các cơ của Nội tạng. Tiêu chảy, ói mửa, táo bónchuột rút ở bụng kết quả. Tử vong xảy ra do ngạt thở nếu các cơ hô hấp bị tê liệt hoặc do ngừng tim nếu tim cơ bị tê liệt. Tỷ lệ toderate cao nhất trong ngộ độc botulinum toxin loại A, tiếp theo là loại E và loại B. Điều trị chủ yếu bằng cách quản lý thuốc giải độc, làm giảm tỷ lệ tử vong từ hơn 90 phần trăm xuống còn khoảng 15 phần trăm. Sự biến mất của chứng tê liệt thường mất hàng tháng. Ở trẻ sơ sinh ngộ độc, kết quả ngộ độc do ăn phải các bào tử qua ruột. Cho đến khoảng một tuổi, cơ thể sản xuất quá ít dạ dày axit để tiêu diệt các bào tử của Clostridium botulinum ăn vào thực phẩm. Sau đó chúng nảy mầm trong ruột và dẫn đến ngộ độc thịt. Vì lý do này, tiêu thụ mật ong không được khuyến khích ở trẻ em dưới một tuổi vì nó có thể chứa các bào tử của vi khuẩn.