Bodyplethysmography: Điều trị, Ảnh hưởng & Rủi ro

Chụp cắt lớp vi tính toàn thân là một thủ tục để xác định phổi chức năng trong các bệnh đường hô hấp. Nó liên quan đến việc đo lường các biến số sinh lý hô hấp quan trọng như thở kháng, tổng phổi công suất và dư khối lượng. Phương pháp này rất đáng tin cậy và cung cấp thông tin cụ thể hơn về phổi chức năng hơn so với phép đo phế dung thông thường.

Chụp cắt lớp vi tính toàn thân là gì?

Chụp cắt lớp vi tính toàn thân là phương pháp xác định chức năng phổi trong các bệnh lý đường hô hấp. Phương pháp này rất đáng tin cậy và cung cấp nhiều thông tin cụ thể hơn về chức năng phổi so với phương pháp đo phế dung thông thường. Chụp cắt lớp vi tính toàn thân được đưa vào thực hành lâm sàng để kiểm tra chức năng phổi vào năm 1956. Ngày nay, nó được coi là thủ tục được lựa chọn trong các phòng khám và thực hành của các bác sĩ chuyên khoa phổi. Một tên gọi khác của chụp cắt lớp vi tính toàn thân là chụp cắt lớp vi tính toàn bộ cơ thể, vì hô hấp khối lượng của chỉnh thể được xác định. Plethys là thuật ngữ tiếng Latinh để chỉ khối lượng, trong khi hậu tố “-graphy” biểu thị biểu diễn đồ họa. Do đó, Bodyplethysmography được sử dụng để hiển thị thể tích không khí hít vào và thở ra của toàn bộ cơ thể. Khả năng của chức năng phổi cung cấp thông tin về hiệu quả của nó. Ba tham số đặc biệt được quan tâm để đo lường. Đó là sức cản đường hô hấp, thể tích cặn và tổng chức năng phổi. Các thở lực cản đại diện cho lực cản phải vượt qua trong quá trình thở. Thể tích dư mô tả thể tích không khí còn lại trong phổi sau khi thở ra. Tổng dung tích phổi được đặc trưng bởi các thể tích khác nhau như thể tích khí hô hấp, thể tích hô hấp và thể tích phổi. Bằng cách xác định các thông số này, chụp cắt lớp vi tính cơ thể rất tốt trong việc chẩn đoán bệnh phổi tắc nghẽn và hạn chế.

Chức năng, tác dụng và mục tiêu

Bodyplethysmography dựa trên định luật vật lý của Boyle và Mariott. Theo định luật này, nếu nhiệt độ không đổi thì tích áp suất và thể tích cũng không đổi. Như vậy, nếu thể tích tăng lên do giãn nở thì áp suất tự động giảm và ngược lại. Phép đo được thực hiện trong một ô gần như kín khí. Một lỗ rò rỉ không khí nhỏ đảm bảo rằng sự gia tăng áp suất trong cabin được bù đắp bằng nhiệt độ cơ thể của bệnh nhân. Thở thông qua một máy đo phế dung gây ra ngực tăng lên, làm tăng thể tích của phổi. Đồng thời, thể tích trong cabin giảm tối thiểu khiến áp suất tăng nhẹ. Sự thay đổi áp suất do thở này được xác định và thể tích không khí hít vào hoặc thở ra được tính toán từ đó. Từ dữ liệu này, có thể rút ra kết luận về ba thông số quan trọng là sức cản thở, thể tích còn lại và tổng dung tích phổi. Ví dụ, thể tích còn lại (thể tích còn lại sau khi thở ra) ở một người khỏe mạnh là xấp xỉ 1.5 lít. Phương pháp đo phế dung cổ điển cung cấp những dấu hiệu ban đầu của bệnh phổi. Chỉ đo thể tích hít vào và thở ra mà không tính đến sự thay đổi áp suất. Không thể xác định thể tích cặn và sức cản đường thở chỉ bằng phương pháp này vì không đo được áp lực trong phổi. Tuy nhiên, đó là điều kiện tiên quyết để phân biệt bệnh phổi tắc nghẽn với bệnh phổi hạn chế. Cản trở bệnh về phổi được đặc trưng bởi sự thu hẹp hoặc tắc nghẽn của đường thở. Do đó, cản trở bệnh về phổi bao gồm các điều kiện như hen phế quản, mãn tính viêm phế quản, hoặc là COPD (bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính). Các bệnh đường hô hấp này được đặc trưng bởi sự tắc nghẽn của luồng không khí. Trong hạn chế bệnh về phổi, sự phát triển của phổi bị cản trở bởi những thay đổi sẹo như ở xơ phổi hoặc tổn thương phổi do amiăng. Không còn có thể đạt được thể tích bình thường còn sót lại của phổi. Với phương pháp chụp cắt lớp vi tính toàn thân, các bệnh về đường hô hấp có thể được chỉ định ngay lập tức. Hơn nữa, chụp cắt lớp vi tính toàn thân cũng cho biết mức độ nghiêm trọng của bệnh phổi một cách đáng tin cậy. Chỉ cần đo thường xuyên, có thể theo dõi diễn biến bệnh và điều trị nhanh chóng nếu có chuyển biến mạnh. Phép đo được kết hợp với phép đo phế dung. Bệnh nhân ngồi trong cabin và hít vào thở ra qua máy đo phế dung. Ngược lại với phương pháp đo phế dung cổ điển, phép đo độc lập với sự hợp tác của bệnh nhân. Thở ngay cả khi nghỉ ngơi là đủ cho phép đo. Một chương trình máy tính đánh giá những thay đổi nhỏ của áp suất trong cabin. Chương trình máy tính cũng tính đến tuổi và giới tính của bệnh nhân. Một cảm biến ghi lại lực của chuyển động thở. Các giá trị đo được cho thấy chức năng phổi đã thay đổi hay chưa. Đặc biệt, nó có thể được đọc liệu sức cản thở quá cao (bệnh tắc nghẽn đường thở) hoặc thể tích dư quá thấp (bệnh phổi hạn chế). Mặc dù phép đo độc lập với sự hợp tác của bệnh nhân, bệnh nhân vẫn nên tuân theo hướng dẫn của thầy thuốc về hít phải và thở ra. Kết quả được đánh giá trong vòng vài giây. Sau đó, một bác sĩ chuyên khoa phổi có kinh nghiệm có thể chẩn đoán những bệnh đầu tiên. Rất nhanh chóng, nó sẽ trở nên rõ ràng những thử nghiệm nào cần được thực hiện. Đây thường là các thử nghiệm khuếch tán, đo công thái học và thử nghiệm khiêu khích. Đối với bệnh nhân, chụp cắt lớp vi tính cơ thể hơi tốn thời gian hơn so với phép đo phế dung cổ điển.

Rủi ro, tác dụng phụ và nguy cơ

Không có sức khỏe rủi ro liên quan đến chụp cắt lớp vi tính toàn thân. Không có bức xạ hoặc tiếp xúc với áp suất. Cabin kính không bị khóa và có thể rời khỏi bất cứ lúc nào nếu có vấn đề về hô hấp hoặc cuộc tấn công hoảng sợ xảy ra. Do đó, phương pháp khám này hoàn toàn vô hại và được thực hiện ngay cả trên trẻ nhỏ mà không có biến chứng. Các biến chứng nghiêm trọng hiếm khi xảy ra. Ngược lại, chụp cắt lớp vi tính toàn thân có thể giảm thiểu đáng kể nguy cơ mắc các bệnh về phổi. Thông qua các phép đo thường xuyên, quá trình của bệnh có thể được theo dõi và điều trị đồng thời. Đối với nhiều bệnh nhân, sẽ là một rủi ro nếu không sử dụng phương pháp này. Một ưu điểm khác là chụp cắt lớp vi tính toàn thân có thể được thực hiện mà không cần dùng lực trong quá trình thở. Quy trình này rất cần thiết để chẩn đoán xác định. Tuy nhiên, các thiết bị cần thiết và chi phí mua lại là đáng kể. Điều này cũng giải thích tại sao chụp cắt lớp vi tính toàn thân chỉ được thực hiện tại các phòng khám và bác sĩ chuyên khoa.