Thuốc kháng sinh cho bệnh viêm phổi

Giới thiệu

Viêm phổi hầu như luôn luôn do nhiễm trùng do vi khuẩn gây ra. Các tác nhân gây bệnh lây truyền qua ho hoặc hắt hơi và gây ra viêm đường hô hấp. Các tác nhân phổ biến nhất bao gồm phế cầu ở người lớn và vi khuẩn thuộc giống Haemophilus influenzae loại b và Staphylococcus aureus ở trẻ nhỏ.

Vi khuẩn viêm phổi thường được điều trị bằng kháng sinh. Trong hầu hết các trường hợp, điều trị bằng thuốc giúp cải thiện nhanh chóng các triệu chứng và chữa lành bệnh. Điều quan trọng là phải hiểu rằng kháng sinh chỉ giúp chữa viêm do vi khuẩn. Kháng sinh không hiệu quả cho viêm phổi có những nguyên nhân khác (ví dụ: virus, ký sinh trùng hoặc nấm).

Những loại kháng sinh được sử dụng

Trong trường hợp viêm phổi, kháng sinh từ nhóm beta-lactam được sử dụng, ví dụ như aminopenicillin. Đây là những chế phẩm ngăn chặn sự tổng hợp của thành tế bào và do đó sự gia tăng của các mầm bệnh viêm phổi. Đại diện được biết đến nhiều nhất của nhóm này là penicillin.

Nhiều người bị dị ứng với penicillin, đó là lý do tại sao fluoroquinolon (ví dụ: moxifloxacin hoặc levofloxacin) hoặc macrolide (ví dụ như erythromycin) có thể được kê đơn theo cách khác. Đối với viêm phổi nhẹ, thuốc được dùng dưới dạng viên nén trong ít nhất XNUMX đến XNUMX ngày.

Đối với viêm phổi nặng, bạn nên sử dụng chất ức chế beta-lactamase (ví dụ: Thuoc ampicillin/ sulbactam) ngoài các aminopenicillin. Thuốc này được tiêm tĩnh mạch thông qua truyền dịch. Ở những bệnh nhân bị viêm phổi tiến triển, đã gây ra các biến chứng như nhiễm trùng huyết sốc, piperacillin / tazobactam (Pip / Taz) kết hợp với macrolide là thuốc được lựa chọn. Thuốc này cũng được sử dụng độc quyền tại bệnh viện và tiêm tĩnh mạch.

Làm thế nào nó được quyết định loại kháng sinh được sử dụng?

Khi bắt đầu điều trị viêm phổi, bác sĩ phải chọn một loại kháng sinh phù hợp, bởi vì không phải chế phẩm nào cũng có tác dụng với mọi loại vi khuẩn. Bác sĩ bắt đầu từ một phổ vi khuẩn nhất định thường dẫn đến viêm phổi và chọn thuốc cho phù hợp. Của bệnh nhân tiền sử bệnh cũng giúp đưa ra kết luận khả thi về loại nhiễm trùng (ví dụ: đi du lịch đến các quốc gia có tỷ lệ đa kháng vi trùng, cơ khí trước đó thông gió, cư dân của viện dưỡng lão).

Việc lựa chọn một loại kháng sinh phù hợp còn phụ thuộc vào việc bệnh nhân có bị dị ứng hoặc không dung nạp với một số loại thuốc hay không. Các phương pháp điều trị kháng sinh trước đây, khả năng dung nạp và khả năng kháng thuốc cũng ảnh hưởng đến việc lựa chọn kháng sinh. Trong trường hợp viêm phổi không có biến chứng, bác sĩ kê đơn thuốc kháng sinh tác dụng rộng rãi, có tác dụng chống lại các mầm bệnh thông thường gây ra bệnh viêm phổi.

Trong nhiều trường hợp, liệu pháp kháng sinh phải được bắt đầu mà không biết chính xác tác nhân gây bệnh, vì điều này nhằm ngăn chặn sự tiến triển nhanh chóng của bệnh. Trong những trường hợp nghiêm trọng, cần điều trị tại chỗ, mầm bệnh được phát hiện và xác định trong phòng thí nghiệm (chẩn đoán đờm, máu các nền văn hóa). Điều này cho phép lựa chọn một loại kháng sinh có hiệu quả đặc biệt chống lại mầm bệnh này. .