Vi lượng đồng căn | U nang tử cung

Vi lượng đồng căn

Ngoài các chế phẩm hormone, các biện pháp vi lượng đồng căn dựa trên thực vật cũng có thể được sử dụng cho liệu pháp điều trị u nang. Các biện pháp vi lượng đồng căn này thường chứa nọc ong (apitoxin), thường dẫn đến thành công. Chất độc của ong tấn công màng của u nang và khiến chúng vỡ ra một cách nhẹ nhàng.

Hình thức trị liệu này không có tác dụng phụ và do đó có thể được khuyến khích. Thường thì công dụng của tiêu Tỳ (Agnus castus) được sử dụng cùng một lúc. Monk's Pepper bình thường hóa mức độ hormone và do đó có ảnh hưởng đến progesterone, đặc biệt là hormone hoàng thể, do đó dẫn đến giảm kích thước của u nang. Nếu prolactin Mức độ tăng cao, việc sản xuất prolactin bị ức chế, trong khi nếu mức độ prolactin quá thấp, việc sản xuất hormone sẽ được kích thích. Tuy nhiên, nếu nghi ngờ u không lành tính mà có khả năng ác tính thì nên dùng lại thuốc thông thường.

Các biến chứng

Theo quy luật, các biến chứng với u nang rất hiếm khi xảy ra. Tuy nhiên, ở một số bệnh nhân, u nang có thể vỡ ra. Sự bùng nổ dẫn đến nghiêm trọng đau bụng.

Phẫu thuật chỉ được xem xét nếu việc vỡ u nang làm tổn thương máu mạch và gây chảy máu trong. Đặc biệt nếu máu đi vào khoang bụng và không giới hạn ở bên trong tử cung, điều này có thể nhanh chóng trở nên nguy hiểm. Một biến chứng khác có thể được gọi là xoay cuống của u nang.

U nang quay một lần quanh trục của chính nó. Bằng cách xoay thân cây, máu tàu cung cấp buồng trứng or tử cung có thể được vắt. Trong những trường hợp như vậy, phẫu thuật khẩn cấp là cần thiết để đảm bảo rằng tử cungbuồng trứng được cung cấp đủ máu và không chết.

Dấu hiệu của bệnh xoắn cuống thường nặng đau bụng, An tăng xung, buồn nôn lên đến ói mửa và đổ mồ hôi. Khi kiểm tra u nang cũng phải làm rõ u nang là khối lành tính hay ác tính. Các u nang lành tính thường được chẩn đoán có biểu hiện khá nhỏ và có hình dạng đều đặn trái ngược với các u nang ác tính.

Nếu nghi ngờ u nang ác tính, u nang được phẫu thuật cắt bỏ hoàn toàn và vật liệu sau đó được kiểm tra bằng kính hiển vi để tìm u ác tính. Nguy cơ bị u nang ác tính tăng lên theo tuổi tác và đặc biệt cao sau tuổi 40. Trước khi xem xét phẫu thuật, bác sĩ phụ khoa đầu tiên cố gắng điều trị u nang bằng chế phẩm hormone.

Nếu liệu pháp này không hiệu quả và u nang gây ra ngày càng nhiều triệu chứng, thì phẫu thuật sẽ được xem xét. Nếu u nang xảy ra trong thời kỳ sau mãn kinh, tức là sau thời kỳ mãn kinh, bác sĩ phụ khoa quyết định phẫu thuật thường xuyên hơn ở phụ nữ trẻ, vì nguy cơ thoái hóa ác tính lớn hơn. Trong trường hợp có u nang, cần lưu ý rằng u nang có thể có xu hướng thoái hóa và do đó phải luôn được theo dõi chặt chẽ.

Nếu có bất kỳ nghi ngờ nào về độ lành tính của u nang, u nang phải luôn được loại bỏ vì lý do an toàn. Nếu một bệnh nhân thường xuyên bị cản trở bởi các u nang có triệu chứng, có thể xem xét cắt bỏ toàn bộ tử cung (cắt bỏ tử cung). Ngày nay, hầu hết các u nang có thể được loại bỏ bằng cái gọi là nội soi (nội soi ổ bụng) sử dụng “kỹ thuật lỗ khóa” để không phải mở toàn bộ thành bụng và đạt được kết quả thẩm mỹ tốt hơn.

Bác sĩ phẫu thuật xuyên bụng qua một vết rạch nhỏ dưới rốn. Để ngăn chặn các tế bào ác tính tiềm ẩn được đưa vào ổ bụng trong quá trình cắt bỏ u nang, u nang được đặt trong một túi nhỏ, có khả năng chống rách trước khi cắt bỏ, để có thể lấy toàn bộ u ra khỏi ổ bụng. Trong quá trình phẫu thuật, các mẫu u nang phải được kiểm tra mô học (kiểm tra mô bằng kính hiển vi) để đảm bảo rằng u nang không phải là ung thư biểu mô ác tính.

Việc loại bỏ phải triệt để hơn, thường liên quan đến việc mở ổ bụng để đảm bảo rằng tất cả các mô ác tính được loại bỏ. Tuy nhiên, phương pháp này thường là nội soi / laparascopic, cho kết quả thẩm mỹ tốt hơn do sẹo nhỏ và ít gây ra đau và căng thẳng cho bệnh nhân, để bệnh nhân có thể xuất viện nhanh hơn. Sau khi phẫu thuật, điều trị hậu phẫu bằng nội tiết tố là cần thiết trong một thời gian để ngăn ngừa sự tái phát của u nang. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng những phụ nữ đã phẫu thuật cắt bỏ u nang có xu hướng phát triển lại u nang trong vòng vài tháng sau khi phẫu thuật. Vì vậy, cần phải gọi là điều trị nội soi - nội tiết phối hợp, tức là điều trị nội tiết sau mổ.