Các triệu chứng liên quan ngoài cơn đau | Đau giả mạc

Các triệu chứng liên quan ngoài đau

In đau giả, cơn đau được truyền từ khớp và các cấu trúc dây chằng của cột sống từ lưng chủ yếu đến tứ chi. Đau giả mạc thường nằm sâu ở lưng dưới và tỏa ra dọc theo đùi đến đầu gối. Đặc trưng, đau trầm trọng hơn khi đứng hoặc đi bộ lâu.

Nếu nguyên nhân của đau là ở phần trên cơ thể, cơn đau lan dọc theo lồng ngực và vào cánh tay. Dây thần kinh cột sống thoát ra khỏi tủy sống không bị hư hỏng trong đau giả, vì vậy bệnh nhân thường không gặp vấn đề gì về chức năng vận động. Điều này có nghĩa là cánh tay bị đau hoặc Chân không có dấu hiệu liệt, mất sức. Rối loạn nhạy cảm là bất thường đối với bệnh giả đau.

Chẩn đoán

Bác sĩ chẩn đoán cơn đau giả thông qua bệnh nhân tiền sử bệnh và một chi tiết kiểm tra thể chất. Các thủ tục chẩn đoán hình ảnh như chụp X-quang, MRI hoặc CT chỉ cần thiết nếu chẩn đoán không kết luận được và được sử dụng để loại trừ các bệnh khác như hội chứng piriformis, hội chứng khớp sacroiliac (tắc nghẽn ISG) hoặc chứng coxarthrosis. Bác sĩ cũng có thể thực hiện kiểm tra thần kinh, chẳng hạn như điện cơ (EMG) và vận tốc dẫn truyền thần kinh (NLG), để xác định xem liệu tổn thương thần kinh là món quà.

Đau giả mạc thường không gây ra thiếu hụt thần kinh. Do sự tiếp xúc với bức xạ cao, sự cần thiết của X-quang kiểm tra cho đau lưng hoặc đau giả gây tranh cãi. Tuy nhiên, trong trường hợp đau dữ dội với các rối loạn chức năng nghi ngờ của cột sống hoặc gãy cột sống, X-quang của mặt sau phải luôn được thực hiện.

Về nguyên tắc, chụp cộng hưởng từ (MRI) cột sống không cần thiết đối với trường hợp đau giả. Tuy nhiên, kiểm tra MRI có thể đánh giá dây thần kinh và đĩa đệm tốt hơn so với chụp X-quang hoặc CT thông thường. Do đó, nên chụp MRI để xác định chẩn đoán và loại trừ các nguyên nhân gây đau khác. Ngoài việc xác nhận chẩn đoán, chụp cắt lớp vi tính (CT) có thể được sử dụng để kiểm soát cơn đau nhắm mục tiêu CT trong trường hợp đau giả nhiều. Trong quá trình chụp ảnh, thuốc gây tê cục bộ được tiêm chính xác vào vùng bị ảnh hưởng (thường là khớp đốt sống). Việc kiểm soát bằng CT cho phép ứng dụng thuốc rất chính xác.