Vi lượng đồng căn cho bệnh trầm cảm | Trị liệu trầm cảm

Vi lượng đồng căn cho bệnh trầm cảm

In vi lượng đồng căn Có rất nhiều hạt cầu được cho là có tác dụng tích cực trong việc điều trị các triệu chứng có thể xảy ra trong bối cảnh trầm cảm. Ví dụ, tùy thuộc vào các triệu chứng ở phía trước nux vomica (nux vomica), long diên hương (hổ phách), Axitum photphoricum (axit photphoric), Pulsatilla pratensis (viên bò cỏ), Lycopodium (câu lạc bộ marmoset), Cimicifuga (nến bạc nho) Và Ignatia amara được sử dụng. Tuy nhiên, St. John's wort (Hypericum perforatum) có lẽ là phổ biến nhất để điều trị vi lượng đồng căn đối với các giai đoạn trầm cảm.

Ảnh hưởng của St. John's wort được cho là tốt hơn giả dược, mặc dù vẫn chưa hoàn toàn rõ ràng về cơ chế hoạt động nào mà St. John's wort phát huy tác dụng của nó. Hiệu quả của St. John's wort được giới hạn ở mức độ nhẹ và trong một số trường hợp có thể là các giai đoạn trầm cảm vừa phải. Việc sử dụng nó trong các giai đoạn trầm cảm nghiêm trọng là không đủ.

St. John's wort có bán tự do ở các hiệu thuốc và quầy thuốc, nhưng có những tác dụng phụ không nên coi thường: Nhức đầu, kích động, tăng nhạy cảm với ánh sáng. Ngoài ra, St. John's wort có thể dẫn đến sự suy yếu của một số nồng độ thuốc nhất định trong máu. Ví dụ, mức độ hiệu quả của “viên thuốc” có thể bị giảm khi uống St.John's wort cùng một lúc.

Mang thai đã được mô tả dưới một liệu pháp kết hợp giữa "thuốc viên" và rong biển St. John's. Các loại thuốc khác như thuốc ức chế miễn dịch và máu Chất làm loãng cũng có thể bị suy yếu bởi St. John's wort, vì vậy điều quan trọng là phải thông báo cho bác sĩ chăm sóc về việc dùng chúng. St. John's wort là một loại cây cao khoảng 60 cm với hoa màu vàng vàng.

Nó mọc tự nhiên ở châu Âu, Tây Á và Bắc Phi và được trồng nông nghiệp, ví dụ như ở Đức. St. John's wort được sử dụng trong y học như một cây thuốc và thuốc chống trầm cảm. Thành phần hoạt tính của nó Hypericum, có trong cánh hoa và chồi của cây, được dùng dưới dạng viên nén cho các giai đoạn trầm cảm nhẹ đến trung bình cũng như đối với tình trạng bồn chồn bên trong.

Trong một trầm cảm, ít hợp chất hóa học hơn, được gọi là chất dẫn truyền thần kinh, hoạt động trong não. Kết quả là một tâm trạng chìm đắm và tính cách buồn của bệnh. St. John's wort gây ra các chất dẫn truyền thần kinh trong não để làm việc lâu hơn và do đó tâm trạng trở nên ổn định hơn và có thể tốt hơn.

Cây thuốc hầu như không có bất kỳ tác dụng phụ trực tiếp nào đối với cơ thể con người và được đánh giá là có khả năng dung nạp rất tốt. Chỉ hiếm khi có báo cáo về các phàn nàn về đường tiêu hóa, kích động hoặc phản ứng dị ứng đến St. John's wort. Hiện tượng nhạy cảm với ánh sáng rất hiếm khi xảy ra (nhạy cảm với ánh sáng) có thể được chống lại bằng cách tránh tiếp xúc quá nhiều với ánh sáng mặt trời.

St. John's wort ức chế enzyme trong gan (isoenzyme CYP3A4). Đây là nguyên nhân gây ra sự phân hủy và kích hoạt của một số loại thuốc. Nếu bệnh nhân dùng những loại thuốc như vậy, kết quả là hiệu quả của chúng sẽ giảm xuống.

Điều này có thể trở thành vấn đề với các loại thuốc quan trọng. John's wort không nên kết hợp với các loại thuốc sau: Sau khi ngừng điều trị với St. Người ta đã thảo luận trong một thời gian dài liệu cây thuốc St.John's wort có tác dụng đã được khoa học chứng minh chống lại trầm cảm ở tất cả.

Trong lĩnh vực trầm cảm nhẹ đến trung bình, các chuyên gia hiện nay đồng ý rằng đây là trường hợp. Tuy nhiên, đối với trường hợp trầm cảm nặng, vẫn chưa có tác dụng thực tế nào của cây đối với quá trình bệnh được chứng minh. Còn những điều không chắc chắn nữa liên quan đến liều lượng và tác dụng cá nhân của các loại thuốc có sẵn trên bệnh nhân.

Ngoài ra, phụ nữ có thai phải được khuyến cáo không nên dùng.

  • Các loại thuốc khác nhau có tác dụng lên tâm thần có
  • Thuốc ức chế hệ thống miễn dịch (thuốc ức chế miễn dịch)
  • Thuốc hen suyễn theophylline
  • Thuốc điều trị HIV hoặc AIDS đặc biệt
  • Thuốc làm loãng máu hoặc thuốc chống đông máu (thuốc chống đông máu)
  • Thuốc tránh thai

Trầm cảm có thể phát triển trong vài tuần, vài tháng hoặc thậm chí tương đối đột ngột. Nó thường được kích hoạt bởi các sự kiện gây sang chấn cho bệnh nhân, chẳng hạn như tách khỏi đối tác, mất việc làm hoặc cái chết của một người thân thiết.

Cấu trúc nhân cách của bệnh nhân đóng một vai trò quan trọng trong quá trình này. Phụ nữ thường quan tâm đến cảm xúc của họ hơn nam giới và do đó, họ thường tìm cách điều trị tâm lý hoặc tâm thần cho chứng trầm cảm của họ. Tâm trạng khi bị trầm cảm có dạng như một làn sóng hoặc một khoảng thời gian.

Sau khi bệnh khởi phát, triệu chứng trầm cảm tăng từ từ, và bệnh nhân phản ứng bằng cách tâm trạng xấu đi nhanh chóng. Vào thời điểm thấp nhất của khoảng thời gian, ý nghĩ tự tử thường xảy ra. Nếu những suy nghĩ như vậy xảy ra, cần liên hệ ngay với người tham khảo hoặc nhân viên y tế.

Thông qua liệu pháp thành công và sự hỗ trợ của bệnh nhân, triệu chứng trầm cảm có thể được giảm bớt và khắc phục. Ngoài ra, tâm trạng được cải thiện trong quá trình phục hồi cho đến khi nó thường trở lại mức ban đầu. Tuy nhiên, đối với một số bệnh nhân trầm cảm, đây không phải là dấu hiệu hết bệnh.

Khoảng một nửa số bệnh nhân bị trầm cảm trở lại sau khoảng 4 năm. Trung bình, bệnh nhân trải qua 4 giai đoạn trầm cảm trong đời. Cơ hội bị ốm lại tăng lên theo từng khoảng thời gian.