Áp xe lách

Giới thiệu - Áp xe lách

Lá lách áp xe là tương đối hiếm. Như với gan áp xe, nguyên nhân thường là các mầm bệnh đã xâm nhập vào máu. Các nguồn vi khuẩn trong cơ thể gây ra hiện tượng cường lách áp xe có thể là kết quả từ Viêm nội tâm mạc, viêm amidan mãn tính hoặc viêm mãn tính do vi khuẩn khác của cơ thể. Một con đường viêm khác của lách áp xe là sự xâm nhập của các tác nhân gây bệnh từ bên ngoài, ví dụ như sau các chấn thương vùng bụng do tai nạn.

Chẩn đoán

Ở đây cũng vậy, ngoài cuộc phỏng vấn bệnh nhân và kiểm tra thể chất, siêu âm là rất quan trọng, vì nó có thể cho thấy các dấu hiệu siêu âm điển hình của áp xe.

Các triệu chứng

Cũng như các loại áp xe khác, hình ảnh viêm ở tiền cảnh là áp xe lách, bao gồm ớn lạnh, sốt, sự gia tăng của các dấu hiệu viêm trong máu đếm. Trong quá trình phát triển của bệnh, một hình ảnh đầy nhiễm trùng có thể phát triển, có thể đe dọa tính mạng. Điều này xảy ra đặc biệt nếu áp xe được phát hiện và điều trị quá muộn.

Sự phức tạp

Áp xe có thể phá vỡ với mủ chảy vào khoang bụng, được gọi là Bụng cấp tính và là một mối nguy hiểm đến tính mạng điều kiện điều đó phải được điều trị ngay lập tức. Các lá lách được tưới máu mạnh mẽ với máu và do đó cũng có nguy cơ chảy máu đe dọa tính mạng trong trường hợp bị thủng nhưng cũng có thể sau khi điều trị phẫu thuật lá lách. Những bệnh nhân đã bị Viêm nội tâm mạc chắc chắn nên nhận được một vỏ bọc kháng sinh dự phòng để ngăn ngừa sự hình thành áp xe.

Liệu pháp và điều trị

Áp xe lách là một căn bệnh nguy hiểm, nếu không được điều trị kịp thời sẽ dẫn đến tử vong trong thời gian rất ngắn. Vì lý do này, chẩn đoán nhanh chóng và bắt đầu điều trị nhanh chóng là rất quan trọng để có kết quả tích cực của bệnh. Đầu tiên, bệnh nhân được sử dụng liệu pháp kháng sinh để chống lại nhiễm trùng bên dưới áp xe lách.

Ngoài ra có thể thủng áp xe lách và dẫn lưu mủ. Dẫn lưu được đưa vào hoặc phẫu thuật hoặc hiện nay chủ yếu là CT hướng dẫn. Trong trường hợp nghiêm trọng, có thể cần phải phẫu thuật cắt bỏ các bộ phận hoặc tất cả lá lách (cắt lách một phần hoặc cắt lách).

Cuộc sống không có lá lách là hoàn toàn có thể xảy ra, vì lá lách không phải là một cơ quan quan trọng. Tuy nhiên, vì lá lách là một cơ quan quan trọng của hệ thống miễn dịch, bệnh nhân sau khi cắt lách có nguy cơ cao bị nhiễm trùng huyết (máu ngộ độc). Hình ảnh lâm sàng này được gọi là hội chứng OPSI (nhiễm trùng sau cắt lách áp đảo).

Ban đầu, điều trị bảo tồn với kháng sinh cũng có thể được thử. Nếu điều này không hiệu quả, cần phải phẫu thuật dẫn lưu bằng tưới vết thương của khoang áp xe. Trong trường hợp nghiêm trọng, lá lách phải được cắt bỏ hoàn toàn (cắt lách).

Để chẩn đoán áp xe lách, bác sĩ có thể thực hiện siêu âm kiểm tra, trong số những thứ khác. Đây là một phương pháp không xâm lấn, trong đó một thiết bị siêu âm được sử dụng để quét lá lách nằm ở vùng bụng trên qua thành bụng và hiển thị nó dưới dạng hình ảnh 2D. Áp xe có thể được phân biệt rõ ràng với mô lá lách khỏe mạnh bằng nang của nó mô liên kết, xuất hiện dưới dạng cấu trúc màu trắng trong siêu âm, và khoang tối bên dưới.

Siêu âm có thể được sử dụng để xác định vị trí của áp xe trong lá lách. Ngoài ra, kích thước có thể được đo chính xác với sự hỗ trợ của thiết bị. Áp xe lách có thể được hình dung bằng chụp cắt lớp vi tính (CT).

Ưu điểm của CT là xét nghiệm có độ tương phản cao, cho phép Nội tạng được miêu tả rất tốt. CT được chuẩn bị trong vòng vài phút, nhưng việc kiểm tra có liên quan đến mức độ phơi nhiễm bức xạ nhất định cho bệnh nhân. Với sự trợ giúp của CT, được kiểm soát đâm và dẫn lưu áp xe trên lá lách cũng có thể được thực hiện.

Phương pháp này làm giảm các biến chứng có thể xảy ra, chẳng hạn như trục trặc của các cơ quan lân cận và cho phép điều trị thành công. Để thay thế cho phẫu thuật cắt bỏ toàn bộ lá lách, thầy thuốc có thể cân nhắc chọc thủng ổ áp xe sau đó dẫn lưu dịch tiết. Trước đây, dẫn lưu áp xe lách được thực hiện như một phần của thủ thuật phẫu thuật.

Ngày nay, dẫn lưu ổ áp xe qua da có hướng dẫn bằng CT được coi là liệu pháp tiêu chuẩn. Áp xe lách được chọc thủng qua da và dịch tiết mủ được dẫn lưu qua ống dẫn lưu. Việc kiểm soát đồng thời bằng CT cho phép xác định vị trí chính xác của ổ áp xe và giảm nguy cơ xảy ra sự cố.