Mô học

Từ đồng nghĩa

Giải phẫu vi thể

Định nghĩa - Mô học thực chất là gì?

Từ mô học được ghép từ từ "histos", có nghĩa là "mô" trong tiếng Hy Lạp và từ "biểu trưng" trong tiếng Latinh cho "học thuyết". Trong mô học, tức là "khoa học mô", người ta sử dụng kỹ thuật AIDS chẳng hạn như kính hiển vi ánh sáng trong cuộc sống hàng ngày để nhận biết cấu trúc của các cấu trúc khác nhau. Hơn nữa, trong giải phẫu hiển vi có sự phân chia các cơ quan thành các thành phần nhỏ hơn và nhỏ hơn:

  • Mô học - Nghiên cứu mô là một phần quan trọng của y học và sinh học, tương ứng là giải phẫu hoặc bệnh học.
  • Tế bào học - Tế bào học liên quan đến thành phần chức năng của tế bào.
  • Sinh học phân tử - Tế bào lần lượt được tạo thành từ nhiều phân tử (hạt) nhỏ.

Tại sao mô học lại cần thiết trong sinh học y tế hàng ngày?

Nhiệm vụ chính của nó là chẩn đoán sớm các khối phồng (khối u) và liệu chúng lành tính hay ác tính, cũng như phát hiện các bệnh chuyển hóa, vi khuẩn, viêm nhiễm hoặc ký sinh trùng. Ngoài ra, khoa học mô góp phần vào các quyết định trị liệu và có nhiều nhiệm vụ khác trong phòng khám và trong nghiên cứu hàng ngày.

Làm thế nào để toàn bộ hoạt động bây giờ?

Bác sĩ giải phẫu bệnh nhận một mẫu mô, ví dụ bằng cách cắt bỏ mẫu từ dạ dày, ruột, gan, v.v. hoặc một phần "khối u" đã được phẫu thuật cắt bỏ khỏi một cơ quan và tạo các vết rạch mỏng micromet. Chúng được nhuộm màu và có thể được kiểm tra bằng kính hiển vi ánh sáng hoặc thêm bằng kính hiển vi điện tử. Sau đó là độ phân giải rất cao và chủ yếu được sử dụng trong nghiên cứu.

Công nghệ lịch sử

Công nghệ mô học xử lý chính xác mô trước khi nó có thể được kiểm tra. Trong phòng thí nghiệm, trợ lý kỹ thuật y tế (MTA) thường chịu trách nhiệm về việc này. Điều này bao gồm: sự cố định của mô, phục vụ để ổn định nó; việc xem mô bằng kính vĩ mô (được thực hiện bằng mắt), cũng như việc cắt nó, được thực hiện bởi một bác sĩ; sự thoát nước và ngâm tẩm của mô trong dầu hỏa lỏng; sự chặn của mẫu mô trong dầu hỏa; việc cắt các phần dày 2 - 5 μm cũng như gắn vào lam kính và cuối cùng là nhuộm các phần. Phương pháp thường quy trong histotechnique là chuẩn bị một chế phẩm FFBE, tức là một mô nhúng dầu hỏa được cố định trong formalin, sau đó được nhuộm trong hematoxylin-eosin. Quá trình này mất khoảng một đến hai ngày từ khi lấy mẫu đến khi có kết quả phân tích (phát hiện).