Candida Glabrata: Nhiễm trùng, lây truyền và bệnh tật

Candida glabrata là một nấm men thuộc chi Candida. Trong một thời gian dài, Candida glabrata không được coi là gây bệnh; tuy nhiên, rõ ràng là mầm bệnh đang gây ra ngày càng nhiều các bệnh nhiễm trùng cơ hội.

Candida glabrata là gì?

Candida glabrata thuộc giống Candida. Candida là nấm men thuộc lớp nấm hình ống (Ascomycota). Có tổng cộng 155 loài Candida khác nhau. Candida glabrata là một loại nấm men đơn bội. Do đó, nó chỉ có một bộ nhiễm sắc thể. Trên glucose-pepton thạch, nấm men xuất hiện dưới dạng khuẩn lạc màu kem và mịn, tạo thành các tế bào dài hơn giống như nấm men. Những tế bào này còn được gọi là pseudomycelia. Các tế bào nấm men riêng lẻ có kích thước từ 2 đến 4 µm. Hàm lượng GC của Candida glabrata là 39.6 đến 40.2 mol%. Hàm lượng GC cho biết phần trăm DNA căn cứ hình thành từ guanin và cytosine. Thông tin di truyền của Candida glabrata có trong nhân tế bào ở dạng 13 nhiễm sắc thể. Bộ gen hoàn chỉnh của chủng nấm lần đầu tiên được giải mã hoàn toàn vào năm 2004. Nó bao gồm hơn 12 triệu cặp bazơ và hơn 5000 gen. Trong một thời gian dài, Candida glabrata chủ yếu được xếp vào nhóm sinh vật không gây bệnh. Chỉ có một số nhiễm trùng với nấm men. Tuy nhiên, nấm Candida glabrata hiện đã được phát hiện là một mầm bệnh cơ hội cao. Cơ hội mầm bệnh là ký sinh trùng sử dụng một tổng thể suy yếu điều kiện của cơ thể và suy yếu hệ thống miễn dịch để lây lan. Kết quả là, chúng gây ra bệnh được gọi là nhiễm trùng cơ hội.

Sự xuất hiện, phân bố và đặc điểm

Candida glabrata là một mầm bệnh xảy ra phổ biến. Điều này có nghĩa là nấm cư trú ở nhiều loại môi trường sống khác nhau. Nó thường được tìm thấy như một chất gây ô nhiễm trong nước trái cây, nhưng cũng được tìm thấy trên trái cây và rau quả. Salad rau sống chế biến sẵn từ quầy tủ lạnh cho thấy mức độ ô nhiễm đặc biệt cao. Chúng thường bị nhiễm hàng triệu nấm Candida hình thành thuộc địa. Nghiên cứu cho thấy mầm bệnh cũng có khả năng tồn tại bên ngoài cơ thể người. Ở độ ẩm từ 30 đến 50 phần trăm, nấm tồn tại ít nhất 30 ngày. Ở độ ẩm cao hơn, khả năng sống sót tăng lên đến 12 tháng. Candida glabrata là loài Candida duy nhất có một số chất kết dính. Chất kết dính là yếu tố cho phép vi khuẩn và nấm để gắn vào các cấu trúc nhất định. Ở nấm Candida glabrata, sản xuất chất kết dính được mã hóa bởi các gen EPA. EPA là viết tắt của chất kết dính tế bào biểu mô. Ở nấm, các gen EPA nằm trong vùng được gọi là vùng phụ. Chúng có thể phản hồi các tín hiệu từ môi trường với khối lượng biểu hiện. Do đó, Candida glabrata có thể bám dính trên cả bề mặt sinh học và phi sinh học trong thảm vi sinh vật. Do đó, nấm gây ra các màng sinh học nguy hiểm trên ống thông tiểu, ví dụ như nhiễm trùng đường tiết niệu do Candida glabrata sau khi đặt ống thông tiểu liên tục xảy ra ở bệnh viện. Candida glabrata cũng tự gắn vào các sản phẩm nha khoa, chẳng hạn như răng giả, và do đó xâm nhập vào cơ thể. Cũng có thể nuốt phải thức ăn bị ô nhiễm và nước trái cây.

Bệnh tật và tình trạng y tế

Candida glabrata là một mầm bệnh có vai trò chủ yếu trong bệnh viện. Ở đó, nó nhiều lần gây nhiễm trùng đường tiết niệu sinh dục. Ví dụ, viêm niệu đạo (viêm của niệu đạo) có thể phát triển do nấm Candida glabrata. Trong viêm niệu đạo, màng nhầy của đoạn cuối cùng của đường tiết niệu (niệu đạo) bị viêm. Điều này gây ra đau trong khi đi tiểu, tiết dịch màu trắng từ niệu đạovà một hằng số muốn đi tiểu. Các bàng quang cũng có thể bị ảnh hưởng bởi viêm. Viêm của tiết niệu bàng quang Cũng được gọi là Viêm bàng quang. Các triệu chứng điển hình của Viêm bàng quang bao gồm đauđốt cháy trong khi đi tiểu, đi tiểu thường xuyên với một phần nhỏ nước tiểu, và bàng quang co thắt. Hơn nữa, có thể có máu trong nước tiểu. Trong trường hợp nghiêm trọng, sốt cũng có thể. Bên cạnh Candida albicans, Candida glabrata là nguyên nhân phổ biến thứ hai gây nhiễm nấm âm đạo. Nói một cách thông tục, nấm âm đạo được gọi là nấm âm đạo. Dấu hiệu điển hình của một nhiễm trùng âm đạo với Candida glabrata là dịch tiết ra từ âm đạo không mùi, màu trắng và bở. Phụ nữ bị ảnh hưởng thường bị ngứa ở vùng âm hộ. niêm mạc. Chúng được gọi là lớp phủ tưa miệng. Trong trường hợp nhiễm trùng nặng, chúng có thể lây lan ra toàn bộ âm hộ. Ngoài ra, các vết ăn mòn gây đau đớn có thể phát triển ở vùng sinh dục. Các da các tổn thương có thể mở rộng đến các cánh tay và đùi trong. Sự nhức nhối của niêm mạc nguyên nhân đau khi đi tiểu và quan hệ tình dục. Ở những bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch nghiêm trọng, tức là những người có hệ thống miễn dịch, ví dụ bệnh nhân với AIDS or bệnh bạch cầu, bệnh nấm có thể phát triển. Trong trường hợp này, nấm sẽ di chuyển theo đường máu đến tất cả các cơ quan trong cơ thể. Đó là một bệnh nhiễm trùng toàn thân. Các máu ngộ độc đi kèm với cao sốt, ớn lạnh và ngày càng xanh xao. Tổng thể điều kiện nghèo. Nếu phổi bị ảnh hưởng bởi Candida glabrata, nghiêm trọng viêm phổi các kết quả. Các tim cũng có thể bị ảnh hưởng bởi nhiễm trùng. Viêm tim van (Viêm nội tâm mạc) là một biến chứng nghiêm trọng của bệnh nhiễm nấm. Vì vậy, việc chẩn đoán và điều trị sớm là rất quan trọng. Các mẫu cấy thường được phát triển từ mẫu gạc hoặc phân để xác định chẩn đoán. Bổ sung giám sát của IgA trong máu có thể cung cấp bằng chứng về nhiễm trùng cấp tính. Kiểm soát nước tiểu cũng có thể thực hiện được, nhưng cung cấp thông tin ít chính xác hơn. Điều trị bằng thuốc chống nấm.