Morbus Parkinson | Rối loạn ngoại tháp

bệnh Parkinson

Có một số dạng phụ của bệnh. Được biết đến nhiều nhất có lẽ là chuyên ngành Chorea (Múa giật Huntington). Một hình thức nhỏ cũng xảy ra.

Đó là một bệnh di truyền. Một bản sao gen di truyền khiếm khuyết là đủ để gây ra bệnh. Ngược lại với bệnh Parkinson, cùng một chất truyền tin (dopamine) có tác dụng gia tăng ở đây (“đảo ngược bệnh Parkinson”).

Do nguyên nhân đối lập với bệnh Parkinson nên các triệu chứng của bệnh nhân về cơ bản cũng trái ngược nhau. Chorea được đặc trưng bởi các cơ giảm trương lực (nhão) và tăng vận động (hyperkinesia). Hyperkinesias là những chuyển động đột ngột, nhanh như chớp và trên hết là những chuyển động không chủ ý.

Trong trường hợp bệnh Huntington nói riêng, những thay đổi về tính cách được thêm vào. Vì là bệnh di truyền nên việc hỏi (sau) gia đình và các bệnh tương tự đóng vai trò quan trọng. Kiểm tra thần kinh, CCT (chụp cắt lớp vi tính của sọ), EEG (điện não đồ = đo lường não sóng) và máu mẫu làm theo.

Đáng tiếc là không loại bỏ được nguyên nhân nên bệnh vô phương cứu chữa. Thuốc có thể được dùng để giảm sự xuất hiện của các cử động đột ngột không chủ ý. Tiên lượng cho bệnh Huntington là sống được 15-20 năm. Tiên lượng của bệnh múa giật nhẹ là tốt với thời gian mắc bệnh từ 1 - 6 tháng, có thể chữa khỏi.

Dystonia

Dystonia là tình trạng căng cơ với tư thế bất thường. Chúng có thể được tách biệt (ví dụ: chỉ phía bên phải của cổ), một chiều hoặc tổng quát. Nguyên nhân là do sự phá hủy các tế bào thần kinh, những tế bào quan trọng đối với phối hợp của các phong trào.

Phân cụm quen thuộc xảy ra. Các khối u (lành tính hoặc ác tính) cũng có thể xảy ra. Các dạng nguyên phát và thứ phát do các bệnh khác gây ra cũng có mặt.

Tùy thuộc vào vị trí của tổn thương trong mô thần kinh, các triệu chứng khác nhau có thể xảy ra. Cái gọi là co thắt cổ chân là thường xuyên. Đây là một sự co cứng tiến triển từ từ của cổcơ cổ.

Sản phẩm cái đầu sau đó quay sang phía đối diện. Các bộ phận khác của cơ thể (bàn tay, cánh tay) cũng có thể bị chuột rút do cơ các cơn co thắt. Chẩn đoán được thực hiện bằng cách lấy bệnh nhân tiền sử bệnh (phỏng vấn) và khám thần kinh.

Liệu pháp được thực hiện bằng cách dùng thuốc để ngăn chặn cơ chuột rút. Việc tiêm độc tố botulinum (Botox®) cũng cho thấy hiệu quả tốt, nhưng vẫn đang được thử nghiệm chi tiết hơn và chỉ nên được sử dụng bởi các bác sĩ chuyên khoa thần kinh, vì nó có thể dẫn đến tác dụng phụ đáng kể (ví dụ như khó nuốt) nếu sử dụng không chuyên nghiệp. Botox® chặn các thụ thể mà các chất truyền tin trung gian co cơ thường tự gắn vào. Chất độc này bị phân hủy sau khoảng 3 đến 4 tháng, do đó cần phải tiêm một mũi mới. Bệnh này tiếp tục tiến triển.