Bơ thường: Ứng dụng, Điều trị, Lợi ích Sức khỏe

Butterwort thông thường thuộc loại cây ăn thịt. Ở Đức, nó đang bị đe dọa tuyệt chủng trong tự nhiên do môi trường sống ngày càng bị thu hẹp. Ở dạng trồng trọt, những người yêu thực vật đánh giá cao loại thảo mộc vì hoa màu xanh của nó và ưa thích ruồi giấm và nấm gặm nhấm. Trong thời gian trước đó, nó là một cây thuốc được công nhận.

Sự xuất hiện và trồng trọt của butterwort thông thường.

Loại thảo mộc này thuộc chi butterworts, trong đó có hơn 80 loài. Trong số này, chỉ có hai người gốc Đức. Butterwort, còn được gọi là butterwort, có tên thực vật là Pinguicula vulgaris. Từ tiếng Latinh có nghĩa là chất béo, "pinguis", dùng để chỉ những chiếc lá màu vàng xanh bóng, bóng mượt của cây. Loại thảo mộc này thuộc chi butterworts, trong đó có hơn 80 loài. Trong số này, chỉ có hai người gốc Đức. Do hoa có màu tím hoặc màu xanh nên cây thảo còn được gọi là cây ngải cứu xanh. Nó phát triển ở những nơi ẩm ướt và lầy lội và thích đất ẩm ướt và có tính axit. Nó có nguồn gốc từ Châu Âu, Nga và Bắc Mỹ và có thể phát triển mạnh ở độ cao lên đến 2300 mét. Loại thảo mộc này bù đắp cho một ít chất dinh dưỡng trong đồng cỏ lầy lội hoặc trên bờ ao bằng cách bắt côn trùng nhỏ hoặc phấn hoa. Lá thuôn dài, mọc thành hình hoa thị sát mặt đất, trên bề mặt có chất tiết dạng bẫy dính. Tùy thuộc vào vị trí, cây ra hoa từ tháng Năm đến tháng Tám. Những bông hoa giống hoa violet về màu sắc và hình dạng. Chúng đậu trên những cọng hoa cao để ong vò vẽ không bám vào lá. Loại thảo mộc tạo thành quả hình trứng viên nang có hạt đen và chỉ có bộ rễ yếu. Cây lâu năm sống sót qua mùa đông ở dạng hành tây-hình nụ mùa đông.

Tác dụng và ứng dụng

Ngày nay, cây ngải cứu chủ yếu được dùng làm vườn hoặc cây cảnh. Đối với những người yêu thích thực vật, có một cây ăn thịt trong vườn là một sức hút đặc biệt. Cây dễ chăm sóc và phát triển tốt nhất ở những vị trí nhiều nắng và sáng. Hoa và lá thường xanh của nó làm cho nó trở thành một loại cây cảnh cho khu vườn tự nhiên. Nó cũng thích hợp làm cây trồng ở bệ cửa sổ. Đặt trong nhà bếp, nó giúp loại bỏ ruồi giấm hay nấm gặm nhấm. Trong vườn, bọ nhỏ hoặc côn trùng khác mắc kẹt trên lá của nó. Chúng cuộn tròn để tiêu hóa con mồi. Tuy nhiên, cây chỉ nở hoa ở những vị trí thích hợp với đất thích hợp và đôi khi chỉ sau nhiều năm. Mặc dù ở Đức, loại thảo mộc này hiếm khi được tìm thấy trong tự nhiên, nhưng nó rất dễ kiếm được ở các trung tâm vườn, cửa hàng kim khí hoặc qua Internet. Trong thời gian trước đó, loại thảo mộc này đã được sử dụng như một cây thuốc dưới tên thuốc là Pinguicula herba. Nó được sử dụng để điều trị mở vết thương, gãy xương, bệnh lao, đau thân kinh toạgan rối loạn hoặc dạ dày và các bệnh về vú. Vi lượng đồng căn thuộc tính của cây là thuốc giảm đau và thuốc nhuận tràng hiệu ứng. Các thành phần chính là chất nhầy, hữu cơ axit chẳng hạn như axit cinnamic, tanin và các loại tinh dầu. Cây chứa enzyme và sử dụng A xít benzoic để bảo vệ con mồi của nó khỏi bị thối rữa. Những thành phần này đã được sử dụng bởi những người ở Scandinavia cho sữa làm đông và làm pho mát. Dùng cho gia đình, chua sữa các sản phẩm như sữa Thụy Điển có thể được sản xuất ở quy mô nhỏ. Chất lên men của cây có thể thu được bằng cách ngâm lá trong nhiều giờ. Những chất này giúp sản xuất pho mát bằng cách đông tụ sữa chất đạm. Nhà tự nhiên học Carl von Linné đã báo cáo một cách sử dụng thảo mộc khác hiện đã lỗi thời trong gia đình: lông thuốc nhuộm, nó cung cấp tóc vàng và chống chấy.

Tầm quan trọng đối với sức khỏe, điều trị và phòng ngừa.

Cây thuốc mỡ không được dùng trong y học cổ truyền. Cho đến nay, không có nghiên cứu nào về khả năng sức khỏe những lợi ích. Các loại rong mỡ khác được sử dụng chủ yếu trong vi lượng đồng căn: ví dụ, một ít chất béo được cho là có tác dụng thúc đẩy trí nhớ và canna-fatweed để làm nhẹ tâm trạng. Y học dân gian biết đến bơ thông thường như một phương thuốc tự nhiên cho viêm phế quản, khụ khụ ho và ho khó chịu. Thảo dược cũng sử dụng loại thảo mộc này như một chất chiết xuất hoặc thành phần trong hỗn hợp trà để chữa ho. Nó được cho là hạ sốt, chống ho, làm sạch vết thương, làm lành vết thương và chống co thắt. Thành phần chính là axit cinnamic, có tác dụng chống co thắt. ho, thuốc thảo dược khuyến nghị một chiết xuất từ ​​lá của loại thảo mộc. Uống ba lần một ngày, năm giọt vào trà, nó giúp làm long đờm và làm dịu ho. Để chuẩn bị chiết xuất, đổ nóng nước trên những chiếc lá tươi. Sau đó, nước sắc ủ trong vài giờ. Lọc các bộ phận của cây và cuối cùng đun sôi chất lỏng cho đến khi một nửa của nó bay hơi. Hỗn hợp trà của thảo mộc với chủ nhật hoặc chuối tây cũng giúp chữa ho khó chịu. Theo y học tự nhiên, lá giã nát hoặc giã nát giúp chữa vết loét trên da. Một phương pháp khắc phục tại nhà để sáng bóng và khỏe mạnh lâu dài lông là một loại nước gội đầu được làm từ nước ép của lá tươi giã nát. Theo dân gian, nước sắc của cây cỏ tranh có tác dụng kích thích lông tăng trưởng và thậm chí giúp chữa hói đầu. Thời gian tốt nhất để thu hái lá là từ tháng sáu đến tháng chín. Loại thảo mộc này có nguy cơ tuyệt chủng ở Đức và bị đe dọa tuyệt chủng ở North Rhine-Westphalia, Brandenburg, Lower Saxony và Schleswig-Holstein. Không nên thu hái những cây mọc ngoài tự nhiên mà nên thu hái những cây trong vườn. Do chưa có các nghiên cứu về hiệu quả của cây nên không có tác dụng phụ nào được biết đến. Tuy nhiên, những người bị ho nên nói rõ về việc sử dụng loại thảo mộc này trước với bác sĩ.