Khoa nội thần kinh: Điều trị, Ảnh hưởng & Rủi ro

Ở đất nước này, các bệnh liên quan đến hormone như bệnh tiểu đường, thấp khớp hoặc rối loạn chức năng tuyến giáp là phổ biến. Đây là một phần trong phổ điều trị của bác sĩ nội tiết. Tuy nhiên, khi các rối loạn thần kinh hoặc tâm thần được thêm vào, việc chẩn đoán và điều trị các bệnh này là một phần nhiệm vụ của khoa nội thần kinh.

Nội tiết thần kinh là gì?

Là một trường con của khoa nội tiết, khoa học nội tiết thần kinh được dành cho sự xen kẽ giữa hệ thống thần kinh và nội tiết. Neuroendocrinology liên quan đến cả nghiên cứu và chẩn đoán và điều trị các rối loạn nội tiết thần kinh. Là một trường con của khoa nội tiết, khoa học nội tiết thần kinh được dành cho sự tương tác giữa hệ thống thần kinh và nội tiết. Một mặt, tác dụng của trung tâm hệ thần kinh về các quá trình nội tiết tố được điều tra. Mặt khác, nó liên quan đến mức độ kích thích tố lưu hành trong máu ảnh hưởng đến hoạt động của các tế bào thần kinh. Giao diện trung tâm giữa hệ thần kinh và hệ thống nội tiết tố nằm trong con người não. Chúng được gọi là vùng dưới đồituyến yên và chịu trách nhiệm điều chỉnh các chức năng quan trọng của cơ thể. Ví dụ, chúng kiểm soát quá trình trao đổi chất, lượng thức ăn, sinh sản và cho con bú. Chức năng của tuyến giáp và các tuyến thượng thận cũng được kiểm soát bởi vùng dưới đồituyến yên. Các bệnh có nguồn gốc nội tiết thần kinh gây ra các triệu chứng đa dạng và không đặc hiệu, do đó trong nhiều trường hợp chúng chỉ được chẩn đoán sau nhiều năm.

Phương pháp điều trị và liệu pháp

Chủ đề chính của nghiên cứu nội tiết thần kinh là kích thích tố, đặc biệt là các hormone peptide. Những chức năng này trong cơ thể không chỉ như sứ giả mà còn là chất dẫn truyền thần kinh trong việc truyền tín hiệu trong trung tâm hệ thần kinh. Sự xáo trộn trong các tế bào và mô sản xuất hormone có thể gây ra nhiều bệnh cảnh lâm sàng. Hàng năm có hàng nghìn bệnh nhân được điều trị các bệnh về rối loạn hormone và chuyển hóa. Bệnh nội tiết thần kinh được chia thành nhiều loại:

  • Các bệnh của trục dưới đồi-tuyến yên,
  • Bệnh của các tuyến ngoại vi,
  • Rối loạn chuyển hóa,
  • Rối loạn phát triển giới tính.

Hậu quả của rối loạn chức năng tuyến yên có thể là suy tuyến yên hoặc thậm chí khối u tuyến yên. Cơ chế bệnh sinh và điều trị của các khối u tuyến yên hiện đang là trọng tâm của nghiên cứu nội tiết thần kinh. Bằng cách khám phá các cơ chế tương tác trong khối u tuyến yên, các phương pháp điều trị ức chế miễn dịch có thể được phát triển. Ngoài ra, nghiên cứu về rối loạn chuyển hóa đóng một vai trò thiết yếu trong sự phát triển của thuốc chống trầm cảm điều trị, vì những thay đổi trong chuyển hóa thường được quan sát thấy ở bệnh nhân trầm cảm. Ở những bệnh nhân bị u tuyến yên hoạt động, chất lượng cuộc sống bị suy giảm nghiêm trọng. Họ có thể bị rối loạn giấc ngủ hoặc tăng lên đau. Cải tiến chỉ xảy ra sau khi thành công điều trị của sự dư thừa nội tiết tố. Điều trị hormone bình đẳng giới để chuyển đổi giới tính cũng là một phần trong phổ điều trị của khoa nội thần kinh. Điều trị hormone cũng là một lựa chọn nếu bệnh nhân bị suy giảm hormone. Đây là trường hợp, ví dụ, sau khi chấn thương sọ não hoặc một bệnh xuất huyết dưới màng nhện. Nhìn chung, trọng tâm nghiên cứu cũng như phổ điều trị của trường con này rất rộng.

Phương pháp chẩn đoán và kiểm tra

Có nhiều phương pháp khám khác nhau để chẩn đoán bệnh nội tiết thần kinh. Phương pháp nào là thích hợp nhất hoàn toàn phụ thuộc vào các khiếu nại và triệu chứng xảy ra. Ví dụ, các xét nghiệm không xâm lấn có thể được thực hiện với sự hỗ trợ của siêu âm máy cũng không tiếp xúc với bức xạ. Siêu âm cho thấy hình ảnh hình thái của các cơ quan như tuyến giáp, tinh hoàngan. Từ đó, bác sĩ có thể biết được mô của một cơ quan có biểu hiện bất thường hay không. A mật độ xương đo bằng DXA cung cấp thông tin về việc mật độ xương của một người có bị giảm hay không. Theo quy luật, mô xương liên tục bị phá vỡ và mới được hình thành. Tuy nhiên, trong trường hợp mắc bệnh nội tiết, quá trình này bị rối loạn khiến các mô xương bị thoái hóa không thể được tái tạo đủ nhanh. thời kỳ mãn kinh. Với sự trợ giúp của từ trường và sóng vô tuyến, các cấu trúc mô bên trong có thể được chụp ảnh qua MRI bằng cách sử dụng máy tính để tạo ra hình ảnh mặt cắt ngang của cơ thể. Phương pháp này có thể được sử dụng để phát hiện bất kỳ thay đổi nhỏ nào của cơ thể, bao gồm cả u tuyến yên nghi ngờ. Phương pháp ghi lại hoạt động điện của tim được gọi là ECG. Điều này được suy ra và ghi lại dưới dạng đường cong. Từ các đường cong, bác sĩ có thể xem liệu có sự xáo trộn trong tim nhịp điệu và nhịp tim. Nếu một trong các đường cong lệch khỏi tiêu chuẩn, có thể có bệnh hoặc sử dụng quá liều một số loại thuốc. Ngược lại, UKG (siêu âm tim) được sử dụng để hình ảnh cấu trúc giải phẫu của tim chứ không phải là hoạt động của tim. Phương pháp này không gây hại cho bệnh nhân vì nó được thực hiện qua siêu âm. Bằng cách này, các cơ tim và van cũng có thể được chụp ảnh và đánh giá chức năng của chúng. Ví dụ, một phép đo thành phần cơ thể có thể được xem xét, nếu cần giảm trọng lượng như một biện pháp điều trị. Với sự trợ giúp của phương pháp này, phân phối of mô mỡ trong cơ thể có thể được tính toán. Ví dụ, tỷ lệ giữa vòng eo và chu vi hông được xác định. Một phương pháp khác để đo thành phần cơ thể là Phân tích trở kháng điện sinh học (BIA). Một dòng điện đo yếu được gửi qua cơ thể thông qua hai điện cực để đo Tỷ lệ phần trăm mỡ cơ thể, cơ bắp khối lượng cũng như nước tỷ lệ phần trăm. Đối với một số bệnh chuyển hóa, chẳng hạn như bệnh tiểu đường, Các chế độ ăn uống nên được thay đổi. Do đó, nhiều phòng khám ngoại trú nội tiết thần kinh cũng cung cấp cho bệnh nhân của họ chế độ dinh dưỡng và bệnh tiểu đường tư vấn để giúp họ cải thiện chất lượng cuộc sống và giảm các triệu chứng của họ. Trong phương pháp này, thói quen ăn uống của bệnh nhân được phân tích đầu tiên. Sau đó, một kế hoạch dinh dưỡng cá nhân được tạo ra dựa trên nhu cầu của bệnh nhân. Thông thường, một phép đo tốc độ trao đổi chất cơ bản cũng được sử dụng để tạo ra chế độ ăn uống kế hoạch. Điều này là do dưới ảnh hưởng của một số loại thuốc hoặc bệnh, tốc độ trao đổi chất cơ bản của cá nhân cũng có thể bị thay đổi.