Thuốc trị ợ chua khi mang thai | Ợ chua khi mang thai

Thuốc trị ợ chua khi mang thai

Ợ nóng suốt trong mang thai có nghĩa là mức độ đau khổ rất cao đối với một số phụ nữ, vì đau thường không thể chịu đựng được. nếu từ bỏ một số loại thực phẩm và caffeine không giúp đỡ, có khả năng điều trị ợ nóng với thuốc. Tuy nhiên, thuốc dành cho ợ nóng trong thời gian tồn tại mang thai Chỉ nên dùng thuốc sau khi đã tham khảo kỹ ý kiến ​​của bác sĩ điều trị, vì không có thông tin đáng tin cậy về việc thuốc có thể gây hại cho thai nhi hay không. Có ba nhóm thuốc khác nhau để lựa chọn: Nhóm đầu tiên là thuốc kháng axit.

Những điều này dựa trên sự giảm thiểu của môi trường axit trong dạ dày. Thuốc kháng axit là những loại thuốc cơ bản làm giảm nồng độ proton trong dạ dày. Vì proton (nguyên tử hydro tích điện dương) chịu trách nhiệm về tính axit của dạ dày, việc giảm giá trị tương tự có tác động tích cực đến các triệu chứng của chứng ợ nóng.

Thuốc kháng axit được bán ở các hiệu thuốc như Aludrox® và Maaloxan®. Nhóm thứ hai của thuốc điều trị chứng ợ nóng là các chế phẩm được gọi là thuốc ức chế bơm proton. Máy bơm proton được đặt trong các ô của niêm mạc dạ dày và vận chuyển proton vào dạ dày và điện hoặc các ion (ví dụ: kali) ra khỏi nó.

Hoạt chất tương ứng được gọi là omeprazole. Omeprazole ngăn cản sự giải phóng proton từ các tế bào của thành dạ dày bằng cách cản trở cơ chế bơm chịu trách nhiệm cho việc này. Để đảm bảo rằng thuốc chưa có tác dụng trong dạ dày mà chỉ thực sự phát huy tác dụng ở tế bào đích, các dạng viên nang kháng axit được sử dụng khi dùng thuốc.

Các tác dụng phụ xảy ra khi dùng omeprazole rất hiếm, vì thuốc được dung nạp tốt, nhưng chóng mặt, đau đầu và trong một số rất hiếm trường hợp rối loạn thị giác xảy ra. Tốt nhất nên dùng thuốc trước bữa ăn. Omeprazole được bán ở dạng viên nén, ví dụ như Antra®.

Nhóm thuốc thứ ba cho chứng ợ chua là H2 thuốc kháng histamine. Những loại thuốc này cũng chống lại sự giải phóng proton bằng cách chặn các trang web gắn kết cho histamine. Histamine, một chất thông tin của dạ dày, thường sẽ kích hoạt tăng axit hóa các chất trong dạ dày và do đó làm trầm trọng thêm chứng ợ chua.

Các thành phần hoạt tính như Ranitidine, được bán dưới tên Sostril®, được sử dụng ở đây. Ngoài các nhóm thuốc kháng acid, thuốc ức chế bơm proton và thuốc kháng histamine, cũng có những loại thuốc có hoạt chất từ ​​thực vật phù hợp hơn với phụ nữ mang thai. Ví dụ, Alginate được lấy từ tảo.

Hoạt chất khó tiêu hóa và tạo thành một lớp màng giữa dạ dày và thực quản, ngăn cản sự chảy ngược của dịch vị chua. Gaviscon® với alginate được bán trên thị trường dưới dạng viên nén nhai hoặc hỗn dịch để uống. Một loại thuốc kháng axit rất nổi tiếng chống lại chứng ợ nóng, cũng có thể được sử dụng trong mang thai, với điều kiện không có bệnh nào khác hạn chế sử dụng thuốc là Rennie®.

Thuốc này hoạt động bởi các thành phần hoạt tính của nó canxi cacbonat và magiê cacbonat liên kết proton dư thừa. Dịch dạ dày không trở nên quá chua, các triệu chứng như đau và ợ hơi thường xuyên được giảm bớt. Các tác dụng phụ có thể xảy ra khi dùng Rennie® bao gồm dị ứng hoặc các phản ứng quá mẫn khác cũng như buồn nôntiêu chảy. Rennie® thường được bán dưới dạng viên nén nhai.