Silicon: Chức năng & Bệnh tật

Silicon là nguyên tố hóa học. Nó có số nguyên tử 14 và ký hiệu Si. Cho con người, silicon đặc biệt quan trọng ở dạng ngoại quan và dạng silicat.

Silicon là gì?

Silicon là một nguyên tố vi lượng. Điều này có nghĩa là mặc dù chất này rất quan trọng đối với cơ thể, nhưng nó chỉ được tìm thấy trong cơ thể với số lượng nhỏ. Trong số những thứ khác, silicon cần thiết như một khối xây dựng protein. Nếu cơ thể được cung cấp quá ít silicon, tình trạng thiếu hụt silicon sẽ xảy ra. Với việc cung cấp quá nhiều thông qua chế độ ăn uống bổ sung, có nguy cơ xảy ra tình trạng thặng dư silicon.

Chức năng, tác dụng và nhiệm vụ

Silicon hữu cơ thực hiện nhiều nhiệm vụ trong cơ thể và tham gia vào nhiều quá trình. Có lẽ đặc tính nổi tiếng nhất của silicon liên quan đến chức năng của nó như một chất định hình. Nó cung cấp cấu trúc cho mô liên kết, da, gân và dây chằng và cung cấp sự ổn định đàn hồi. Nguyên tố vi lượng tăng tốc sự hình thành elastin và collagen. Elastin và collagen là đặc biệt mô liên kết sợi. Elastin giữ mô liên kết đàn hồi, trong khi collagen cung cấp sức mạnh. Tuy nhiên, mô liên kết không chỉ có chức năng nâng đỡ và giữ cho Nội tạng và các cấu trúc bên ngoài cơ thể. Nó cũng phục vụ để cung cấp chất dinh dưỡng. Chỉ có mô liên kết săn chắc và đàn hồi mới có thể đảm bảo cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng cho tất cả các tế bào xung quanh. Ngoài ra, nếu mô liên kết bị hư hỏng, các chất độc trong tế bào không thể được thải bỏ đúng cách. Silicon cũng có khả năng liên kết nước với số lượng lớn. Silicon có thể liên kết gấp 300 lần trọng lượng của chính nó trong nước. Do đó, nó cũng có một chức năng trong việc điều chỉnh nước cân bằng. Nước cân bằng cân bằng là điều kiện tiên quyết cho nhiều quá trình trao đổi chất. Khả năng liên kết nước của nguyên tố vi lượng cũng đóng một vai trò quan trọng trong tính đàn hồi của mô liên kết, da, xương sụn, gân và dây chằng. Silicon cũng có thể làm tăng sản xuất các sợi collagen trong xương. Collagen đóng một vai trò quan trọng trong sự ổn định của xương. Sản xuất elastin cũng được tăng lên nhờ silicon. Nhờ đó, xương không chỉ có được sự ổn định mà còn có độ đàn hồi nhất định. Nếu xương hoàn toàn ổn định và không linh hoạt tối thiểu, nó sẽ gãy rất nhanh. Tuy nhiên, silicon không chỉ là một thành phần của xương và mô liên kết, mà còn là một phần của máu tàu. Ở đây, nguyên tố vi lượng đảm bảo tính linh hoạt và độ đàn hồi trong tàu và do đó ngăn ngừa các bệnh về hệ tim mạch. Silicon cũng cần thiết để kích thích hệ thống miễn dịch. Nó kích hoạt việc sản xuất tế bào lympho và thực bào, giúp cơ thể chống lại các vi sinh vật như vi khuẩn, virus hoặc nấm.

Sự hình thành, sự xuất hiện, thuộc tính và giá trị tối ưu

Silicon không thể được hình thành bởi cơ thể, nhưng phải được cung cấp thông qua chế độ ăn uống. Nhu cầu hàng ngày của silicon đối với một người trưởng thành là khoảng năm đến mười một miligam silicon. Thực vật hấp thụ silic vô cơ từ đất và chuyển hóa nó để cơ thể con người sử dụng. Tuy nhiên, ngay cả silicon phân tử chứa trong thực vật chỉ có thể được cơ thể hấp thụ ở một mức độ nhất định. Phần còn lại được thải qua phân và nước tiểu. Do quá trình công nghiệp chế biến thực phẩm và nông nghiệp thâm canh, hàm lượng silic trong thực phẩm ngày càng giảm. Các nguồn tốt của silicon là Yến mạch, lúa mạch, khoai tây và kê. Silicon cũng được tìm thấy trong nhiều loại trái cây và quả mọng. Các loại cây như chích chòe cây tầm ma, đuôi ngựa và cỏ đuôi ngựa đặc biệt giàu silicon.

Bệnh tật và rối loạn

Nếu lượng ăn vào quá thấp, sự thiếu hụt silic sẽ xảy ra. Thiếu silicon có thể dẫn rối loạn tăng trưởng. Ngoài ra, một số da bệnh mãn tính eczema và ngứa mãn tính dường như phát triển liên quan đến sự thiếu hụt silicon hoặc trầm trọng hơn khi thiếu silicon. Các triệu chứng phổ biến của sự thiếu hụt là giòn móng tayrụng tóc. Khô và giòn lông hoặc tóc gãy rụng nhanh chóng cũng là biểu hiện của sự thiếu hụt. Trong tình trạng thiếu hụt nghiêm trọng, máu tàuxương cũng có thể bị ảnh hưởng. Do thiếu hụt collagen, loãng xương hoặc xơ vữa động mạch có thể xảy ra. Tuy nhiên, quá nhiều silicon cũng có thể gây ra thiệt hại. Tuy nhiên, việc cung cấp quá mức nguyên tố vi lượng thường chỉ có thể đạt được bằng cách thực hiện chế độ ăn bổ sungHậu quả của việc dư thừa silic là sự tan máu của màu đỏ máu tế bào. Trong tán huyết, các tế bào máu bị hòa tan. Điều này dẫn đến thiếu máu. Điều này thể hiện qua các triệu chứng như khó thở, suy nhược, nhanh chóng mệt mỏi, buồn nôn, ngất xỉu, ù tai, rụng tóc, chẻ ngọn, đánh trống ngực, rối loạn nhịp tim và xanh xao. Uống quá nhiều và lâu dài cũng có thể gây ra thận sỏi và sỏi tiết niệu. Phụ nữ mang thai trong mọi trường hợp không nên dùng silicon dưới dạng thực phẩm bổ sung. Người ta vẫn chưa biết liệu nguyên tố vi lượng ở liều cao có ảnh hưởng gì đến thai nhi hay không. Silicon trở nên nguy hiểm khi nó có trong không khí với nồng độ cao hơn. Chất này sau đó đi vào phổi qua đường hô hấp và tích tụ trong các phế nang. Đây được gọi là bệnh bụi phổi hoặc theo thuật ngữ y học là bệnh bụi phổi silic. Bệnh bụi phổi silic là một bệnh nghề nghiệp điển hình của thợ mỏ. Các triệu chứng đặc trưng của bệnh bụi phổi silic là khó chịu ho, ho khan và khó thở. Tuy nhiên, các triệu chứng đầu tiên thường không xuất hiện cho đến mười đến hai mươi năm sau khi tiếp xúc. Khi bệnh tiến triển, phổi hiệu suất ngày càng giảm dần. Bệnh luôn gây tử vong.