Keo y tế: Ứng dụng & Lợi ích sức khỏe

Keo dán y tế được sử dụng cho cấy ghép, trong phẫu thuật và đóng vết thương hở vết thương. Ngoài fibrin, là chất kết dính nội sinh và cầm máu, cyanoacrylate ester các chế phẩm chủ yếu được sử dụng làm chất kết dính y tế ngày nay. Việc phát minh ra những chất kết dính này đã cứu sống hàng triệu người.

Keo dán y tế là gì?

Ngoài khả năng chống rách, keo dán y tế phải tương thích với các mô. Để đóng các khuyết tật mô, hợp nhất các mô khác nhau và sửa chữa cấy ghép chẳng hạn như các bộ phận giả, y học con người đã sử dụng chất kết dính trong một số trường hợp từ thế kỷ 20. Ngoài khả năng chống rách, keo dán y tế trên hết phải thể hiện khả năng tương thích với mô. Sự tương thích mô này được đảm bảo cho các chế phẩm riêng lẻ trong quá trình thử nghiệm nghiêm ngặt. Vào những năm 1950, ngành phẫu thuật lần đầu tiên thử nghiệm chế phẩm cyanoacylate làm chất kết dính y tế. Nguyên tắc của những chất kết dính này là trùng hợp khi tiếp xúc với dịch cơ thể như là máu. Sự trùng hợp này tạo thành một nước-cầu bền chặt niêm phong vết thương với một liên kết ổn định. Đặc biệt, Methyl cyanoacrylate, được sử dụng vào thời điểm đó, đã sớm bị loại bỏ vì độc tính của các monome mà nó chứa. Bởi vì sự ngắn gọn của carbon cầu, phản ứng viêm và phản ứng cơ thể lạ là những phản ứng phụ. Các biến thể của chất kết dính trùng hợp đầu tiên vẫn còn được sử dụng ngày nay hình thành lâu hơn cầu không có độc tính với mô.

Hình thức, kiểu và kiểu

Ngày nay, các loại chất kết dính y tế chính được sử dụng là cyanoacrylate chuỗi dài ester chế phẩm và keo fibrin. Keo fibrin được sử dụng đặc biệt cho mục đích sử dụng bên trong. Điều này có nghĩa là chúng đóng một vai trò quan trọng trong Nội tạng và trong tất cả các loại phẫu thuật. Cần phải phân biệt giữa những thứ này và bề ngoài da chất kết dính, phải đáp ứng các yêu cầu ít nghiêm ngặt hơn và đặc biệt chứa N-butyl cyanoacrylate làm thành phần hoạt tính. Keo y tế này đã được sử dụng ở Châu Âu từ khoảng những năm 1970, khi nó thậm chí còn được sử dụng trong tai giữa và để ghép xương. Ngày nay, chất kết dính hầu như chỉ được sử dụng để đóng dấu da vết thương và để sửa chữa xương. Trong việc sử dụng ngày nay, chất này được cho là không gây ra bất kỳ tác dụng phụ hoặc tác dụng gây ung thư nào. Tuy nhiên, việc sử dụng hợp chất kết dính này trong các mô sâu hơn hoặc các mô có mạch máu lớn trong một số trường hợp nhất định có thể liên quan đến nhiễm độc mô, do đó fibrin được sử dụng thường xuyên hơn trong bối cảnh này vì nguồn gốc sinh học của nó. Chất kết dính xương đang được sử dụng bao gồm methyl polymethacrylate vì chúng có thể chịu được ứng suất cao hơn.

Cấu trúc và phương thức hoạt động

Octyl xyanoacrylat ester các chế phẩm chứa monome. Những monome này, khi tiếp xúc với các dịch cơ thể, có thể gây ra một phản ứng hóa học được gọi là phản ứng trùng hợp. Polyme là một chất hóa học được tạo ra từ các đại phân tử. Chất này hình thành trong quá trình phản ứng của các chế phẩm este octyl cyanoacrylate và dịch cơ thể, tạo thành một cầu nối mà các monome liên tục được gắn vào. Phản ứng này là một phản ứng trùng hợp tạo ra anion và tỏa nhiệt, trong đó nướcrượu đóng một vai trò quan trọng. Ngày nay, chất kết dính dạng lỏng dùng trong y tế để đóng vết thương có chứa nhiều loại este khác nhau, chẳng hạn như este butyl, octyl hoặc isobutyl. Tất cả chúng đều có tác dụng kìm khuẩn, nhưng khác nhau về sức mạnh. Fibrin khác với các chế phẩm cyanoacrylate ester ở chỗ nó là một chất sinh học. Chất kết dính hai thành phần sinh lý này đóng một vai trò trong quá trình đóng vết thương của cơ thể. Nhân loại máu chứa protein fibrin. Tiền chất của fibrin này là fibrogen, phản ứng với tiểu cầu để đóng vết thương và hình thành lớp vỏ. Trong những năm 1970, khoa học y tế lần đầu tiên phân lập các thành phần này từ máu để sử dụng như một chất kết dính trong quá trình phẫu thuật. Do ở gần cơ thể người nên chất kết dính này sẽ bị sinh vật phân hủy hoàn toàn sau một thời gian đáng kể. Methyl polymethacrylates, có thể làm cho các vật liệu như nhựa và kim loại kết dính, chịu nhiệt độ và đàn hồi, thường được sử dụng làm chất kết dính xương cho cấy ghép. Chỉ thông qua tính đàn hồi, chúng mới có thể truyền lực đến xương và chịu được độ cao căng thẳng do trọng lượng cơ thể gây ra.

Các lợi ích y tế và sức khỏe

Lịch sử của chất kết dính y tế và sức khỏe lợi ích của phát minh này bắt đầu từ Chiến tranh Việt Nam vào những năm 1960. Vào thời điểm đó, mặc dù được chăm sóc y tế tương đối tốt, nhưng rất nhiều binh lính trong chiến khu đã không thể chống lại được ngực và những vết thương ở bụng vì họ phải chờ đợi quá lâu để điều trị bằng phẫu thuật. Vào giữa những năm 1960, keo y tế đã được sử dụng trong Chiến tranh Việt Nam. Việc sử dụng các chế phẩm này khiến số người chết giảm xuống. Vết thương có thể được đóng lại ngay lập tức trong vòng vài phút, ít nhất là bề ngoài. Nhiễm trùng đã được giảm theo cách này. Do đó, nhiều người có thể được cứu khỏi chảy máu đến chết hoặc chết vì nhiễm trùng huyết. Ngay cả ngày nay, keo y tế đã cứu mạng người. Trong quá trình phẫu thuật, ví dụ, fibrin, có tác dụng cầm máu, có thể ngăn ngừa các biến chứng nghiêm trọng mà không tốn ít thời gian. Y khoa da chất kết dính cũng có tác dụng tiết kiệm thời gian. Chúng có thể được sử dụng để đóng vết thương hở trong thời gian rất ngắn và rõ ràng là vượt trội hơn so với chỉ khâu về thời gian cần thiết. Vì thời gian có thể tạo ra sự khác biệt giữa sự sống và cái chết, đặc biệt là trong y học, nên lợi ích y tế của chất kết dính rất cao. Sự kết hợp giữa chỉ khâu và chất kết dính y tế cũng thường được sử dụng để đóng vết thương. Ví dụ, chất kết dính có thể được sử dụng để hỗ trợ các vết khâu nặng hoặc phức tạp. Do đó, việc chữa bệnh thường ít phức tạp hơn và các bác sĩ có thể ngăn các vết khâu không tự chủ bị lỏng ra sau khi phẫu thuật. Keo dán y tế mang lại những ưu điểm khác so với chỉ khâu ngoài việc tiết kiệm thời gian. Ví dụ, so với chỉ khâu, chất kết dính ít gây kích ứng và ngứa da hơn.